2294.41
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
284 bài thơ, 4 bài dịch
11 bình luận
136 người thích

Thơ đọc nhiều nhất

Thơ thích nhất

Thơ mới nhất

Tác giả cùng thời kỳ

- Nguyên Hồng (1 bài)
- Vĩnh Mai (17 bài)
- Bùi Văn Nguyên (5 bài)
- Tống Hồ Cầm (15 bài)
- Trúc Sĩ (5 bài)

Dịch giả nhiều bài nhất

- Trần Lê Văn (1 bài)
Tạo ngày 31/05/2004 22:13 bởi Vanachi, đã sửa 4 lần, lần cuối ngày 03/08/2015 12:53 bởi Vanachi
Nguyễn Bính (13/2/1918 - 20/1/1966) tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh tại làng Thiện Vinh, huyện Vụ Bảng, tỉnh Nam Định. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ, tự học ở nhà, bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi, được giải khuyến khích thơ của nhóm Tự lực văn đoàn năm 1937 với tập thơ Tâm hồn tôi.

Ông tham gia kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ, tập kết ra Bắc năm 1954, làm việc tại Hội văn nghệ Việt Nam, Ty văn hoá thông tin Nam Hà. Năm 1958, Nguyễn Bính làm chủ bút báo Trăm hoa. Nhiều tài liệu ghi ông mất ngày 20-1-1966 (tức ngày 29 Tết - không có ngày 30) tại Hà Nội. Tuy nhiên nhà văn Vũ Bão cho biết ông qua đời tại nhà riêng của một người bạn tên là Đỗ Văn Hứa, hiệu Tân Thanh, tại thôn Mạc Hạ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Thơ Nguyễn Bính “chân quê”, giản dị, mộc mạc, nhẹ nhàng, trong sáng,…

 

  1. Ái khanh hành
  2. Anh về quê cũ
  3. Áo anh
  4. Áo đẹp
  5. Bạc tình
  6. Bạch đào
  7. Bài thơ quê hương
    4
  8. Bài thơ vần Rẫy
  9. Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng
    2
  10. Bảy chữ
  11. Bắt gặp mùa thu
  12. Bên hồ
  13. Bến mơ
  14. Bến nước
  15. Bên sông
  16. Bóng bướm
  17. Bức thư nhà
  18. Bước đi bước nữa
  19. Bướm đi chợ
  20. Bướm nói điêu
  21. Cái quạt
  22. Cảm tác
  23. Cầu
  24. Câu đối Tết
    1
  25. Cầu nguyện
  26. Cây bàng cuối thu
  27. Cha mẹ chồng lần lượt qua đời, Ngũ nương quyết định tìm chồng
  28. Chẳng biết yêu nhau phải những gì
  29. Chân quê
    3
  30. Chỉ về phía đó
  31. Chiếc nón
  32. Chiều
  33. Chiều thu
  34. Chim thêu
  35. Chim với người
  36. Cho tôi được khóc
  37. Chờ
  38. Chờ mong
  39. Chờ nhau Lẳng lơ
    3
  40. Chú rể là anh
  41. Chùa Hương xa lắm
  42. Chùa vắng
  43. Chung một lời thề
  44. Chuông ngọ
  45. Chuyến tàu đêm
  46. Chuyện tiếng sáo diều
  47. Con tằm
    1
  48. Cô dâu
  49. Cô hái mơ
    4
  50. Cô lái đò
    1
  51. Cuối tháng ba
  52. Cưới vợ Nàng đi lấy chồng
    4
  53. Diệu vợi
  54. Dòng dư lệ
  55. Dối lòng
  56. Dù rằng...
  57. Đàn tôi
    1
  58. Đề tặng ảnh
  59. Đề thơ trên mảnh quạt vàng
  60. Đêm cuối cùng
  61. Đêm mưa
  62. Đêm mưa đất khách
  63. Đêm mưa nhớ bạn
  64. Đêm Phúc Am
  65. Đêm sao sáng
  66. Đoá hoa hồng
  67. Đôi khuyên bạc
  68. Đôi mắt
  69. Đôi nhạn
  70. Đồng Tháp Mười
  71. Đường rừng chiều
  72. Em về
  73. Ga đơn ga kép
  74. Gái xuân
  75. Gặp nhau
  76. Ghen
    4
  77. Giả cách
    2
  78. Giấc mơ anh lái đò
  79. Gió lạnh
  80. Gió mưa
  81. Giọt nến hồng
  82. Giối giăng
  83. Giở rét Trời trở gió
  84. Giời mưa ở Huế
  85. Giữa đường
    2
  86. Gửi cố nhân
  87. Gửi người vợ miền Nam
  88. Hà Nội ba mươi sáu phố phường
  89. Hai buổi chiều (I)
  90. Hai buổi chiều (II)
  91. Hai lòng Em với anh
  92. Hái mồng tơi
  93. Hành phương Nam
    13
  94. Hết bướm vàng
  95. Hết tháng ba
  96. Hoa cỏ may
  97. Hoa gạo
  98. Hoa rụng hai lần
  99. Hoa với rượu
    10
  100. Hôn nhau lần cuối
    1
  101. Hương cố nhân
  102. Khách lạ đường rừng
  103. Khăn hồng
  104. Khép cánh sương
  105. Khóc Nguyễn Nhược Pháp
    1
  106. Không đề (I)
  107. Không đề (II)
  108. Không đề (IV)
  109. Không hẹn ngày về
    6
  110. Không ngủ
  111. Lá mùa thu
  112. Lá thư
  113. Lá thư về Bắc
  114. Lại đi
  115. Làm dâu
  116. Làng tôi
  117. Lạy trời cấm cửa rừng mai
  118. Lòng kỹ nữ
  119. Lòng nào dám tưởng...
  120. Lòng yêu đương
    1
  121. Lỡ bước sang ngang
    7
  122. Lỡ duyên
  123. Lơ đãng
  124. Lửa đò
  125. Mai tàn
  126. Màu tím Huế
  127. Mắt nhung
  128. Mẹ
  129. Mong thư
  130. Môi người phóng đãng
  131. Một chiến công
  132. Một chiều say
  133. Một con sông lạnh
  134. Một đêm ly biệt
    1
  135. Một lần
  136. Một mình
  137. Một nghìn cửa sổ
  138. Một thân đàn
  139. Một trời quan tái
  140. Mơ chuyện thần tiên
  141. Mơ tiên
  142. Mùa đông gửi cố nhân
  143. Mùa đông nhớ cố nhân
  144. Mùa xuân không dứt
  145. Mùa xuân xanh
    3
  146. Mưa
  147. Mưa xuân (I)
    10
  148. Mưa xuân (II)
    3
  149. Mười hai bến nước
  150. Mỵ Nương
  151. Nam Kỳ cũng gió cũng mưa
  152. Nàng thành thiếu phụ
  153. Nàng Tú Uyên
  154. Nghĩ làm gì nữa
  155. Ngô sơn vọng nguyệt
  156. Ngũ nương chờ đợi và phụng dưỡng cha mẹ chồng
  157. Ngũ nương gặp Thái sinh rồi bỏ đi
    2
  158. Ngũ nương khuyên chồng đi thi
  159. Ngược xuôi
  160. Người cách sông rồi... tôi cách sông
    1
  161. Người con gái ở lầu hoa
  162. Người hàng xóm
    4
  163. Người mẹ Lòng mẹ
    3
  164. Người tiên
  165. Ngưu Lang, Chức Nữ
  166. Nhà cô thôn nữ
  167. Nhà ga
  168. Nhạc xuân
    1
  169. Nhặt nắng
  170. Nhầm Nhà tôi
  171. Nhiều
  172. Nhớ (I)
  173. Nhớ (II)
  174. Nhớ kỹ tên con nhé!
  175. Nhớ người trong nắng
  176. Nhỡ nhàng
  177. Nhớ Oanh
  178. Nhớ thương ai...
  179. Những bóng người trên sân ga
    13
  180. Những người của ngày mai
  181. Những trang nhật ký
  182. Nỗi gian truân trên đường lên Trường An tìm chồng
  183. Nuôi bướm
  184. Nữ sinh
  185. Nửa đêm
  186. Nước mấy lần xanh
  187. Oan nghiệt
    3
  188. Oanh
    5
  189. Phẫn nộ
  190. Phố chợ đường rừng
  191. Phơi áo
  192. Qua nhà Gần, xa
  193. Quán lạnh
    1
  194. Quan Trạng
  195. Quán trọ
  196. Quê tôi
  197. Rắc bướm lên hoa
  198. Rừng
  199. Rượu xuân
    1
  200. Sao chẳng về đây?
  201. Tạ từ
  202. Tạnh mưa
  203. Tay người
  204. Tặng Kiên Giang
  205. Tâm hồn tôi
  206. Tây Thi
  207. Tết biên thuỳ
  208. Tết của me tôi
  209. Thái sinh cưới Ngũ nương
  210. Thái sinh đỗ Trạng nguyên và cưới con gái Thái sư
  211. Thái sinh gặp Ngũ nương
  212. Thái sinh lên kinh ứng thí, Ngũ nương ở nhà
  213. Tháng ba
  214. Thanh đạm
  215. Thẹn
  216. Thi vị
  217. Thoi tơ
  218. Thôi nàng ở lại
    1
  219. Thơ gửi Trần Huyền Trân
  220. Thơ tôi
  221. Thơ xuân
    1
  222. Thời trước
    3
  223. Thu rơi từng cánh
  224. Thư cho chị (I)
  225. Thư cho chị (II)
  226. Thư gửi thày mẹ
  227. Thư gửi về Cha
  228. Thư lá vàng
  229. Tiếng trống đêm xuân
  230. Tỉnh giấc chiêm bao
  231. Tình tôi (I) Oan uổng
  232. Tình tôi (II)
  233. Tôi còn nhớ lắm
  234. Tơ trắng
  235. Trách mình
  236. Trải bao nhiêu núi sông rồi
  237. Trắng
    1
  238. Trong vườn cúc
  239. Trông sao
  240. Trở về quê cũ
    2
  241. Truyện cổ tích
  242. Trưa hè (I)
  243. Trưa hè (II)
  244. Trường huyện Bươm bướm ngày xưa
  245. Túi ba gang
    2
  246. Tuyệt tác
    2
  247. Từ đó về đây
    5
  248. Tương tư
    4
  249. Tựu trường
  250. Vài nét Huế
  251. Vài nét rừng: Giữa đường
  252. Vài nét rừng: Nhà em Xa cách
  253. Vài nét rừng: Vì ai?
  254. Vài nét rừng: Xanh
    2
  255. Vẩn vơ
  256. Vâng
  257. Vì ai
  258. Vì em
  259. Viếng hồn trinh nữ
    8
  260. Vịnh cụ Tiên Điền
  261. Vô duyên
  262. Vô đề (Thiên nhai hải giác nhất phiêu bình)
    1
  263. Vô đề (Từ buổi thu sang, sầu lá rụng)
  264. Vô tình
  265. Vớt hoa
  266. Vu quy
  267. Vũng nước
  268. Vườn hoang
  269. Vườn xuân
  270. Xa xôi
  271. Xây hồ bán nguyệt
  272. Xây lại cuộc đời
    1
  273. Xây nhà máy
  274. Xóm cũ
  275. Xóm làng xanh
  276. Xóm Ngự Viên
  277. Xuân mới gửi bạn cũ
  278. Xuân nhớ
  279. Xuân tha hương
    4
  280. Xuân thương nhớ
  281. Xuân vẫn tha hương
    4
  282. Xuân về
    3
  283. Xuân về nhớ cố hương
    1
  284. Xuôi đò

Tuyển tập chung

Thơ dịch tác giả khác

 

 

Trang trong tổng số 2 trang (11 bình luận)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Ba đỉnh cao Thơ Mới: Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử, Kỳ 5: Nguyễn Bính và “kiếp con chim lìa đàn”

1. Nguyễn Bính trong mỗi chúng ta

Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào đó. Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung cứ thế mà thức dậy, mà da diết. Tôi thường nhớ tới Nguyễn Bính mỗi độ xuân về. Nhất là lúc mưa xuân. Đấy cũng là lúc rời phố xá, tôi trở về quê nhà ăn tết với người thân. Tôi cứ thấy Nguyễn Bính về theo từng chấm mưa rắc bụi lên cỏ cây hoa lá, lên những võng tơ nhện óng ánh sương giăng mắc vệ đường, vệ đê, bụi hoang nơi đồng nội. Bấy giờ những nẻo đường quê dường như mềm hơn, mịn hơn. Những làn bụi từng bị rang khô dưới nắng hè, từng lầy lụa trong mưa dầm tháng bảy, từng xáo cuộn cùng xác lá trong gió heo may tháng mười giờ đã yên nằm trên mặt đường ẩm mát. Lấy móng tay gợi lên thì xốp tơi như lòng khoai lang bột đồng màu. Những hàng xoan se mình tím tái trong suốt mùa đông bỗng tươi da, nhựa đang chuyển mình lên những chồi hẹn nhú. Nước giếng khơi như bỗng trong đầy. Hoa bưởi rắc phấn vàng xuống tóc người dừng bước... Ở đâu tôi cũng thấy Nguyễn Bính. Cái gì cũng nhắc về Nguyễn Bính. ấy là lúc đã về tới cố hương, về với tuổi thơ xưa. Nguyễn Bính cứ lãng đãng theo tôi trên mỗi bước đường làng. Tôi trò chuyện cùng ông như với một cố nhân, một người vẫn ở mãi chốn quê, chỉ có mình là bỏ quê phiêu dạt. Nguyễn Bính là làn mưa xuân rắc mình lên chốn hương thôn, là lá dâu xanh dập dờn bướm vàng cuối bãi. Nguyễn Bính là chiếc lá lìa cành đầu ngõ, là chiếc mo cau rụng vội góc vườn. Nguyễn Bính là sắc nắng chiều man mác trên mỗi thân cau, là ngọn mồng tơi ngập ngừng nơi lưng giậu. Nguyễn Bính là tiếng trống chèo động lòng đêm hội, là cỗ tam cúc thắc thỏm giao thừa. Nguyễn Bính là mảnh khăn điều trẩy hội chùa, là cây lụa trắng đang về chợ làng xa. Nguyễn Bính là nỗi hờn tủi của những con đò. Nguyễn Bính là tiếng thở than của mỗi tấm liếp. Nguyễn Bính là những mảnh đời lỡ làng sau mỗi luỹ tre lối xóm. Nguyễn Bính là nỗi đoái trông của mỗi vườn cam mái gianh. Nguyễn Bính là đôi mắt đau đáu trong thẳm sâu lòng người xa xứ... Tôi nhớ Nguyễn Bính như là khắc khoải về xa xưa, về hiện tại của chính mình. Tôi, một đứa con sống trong lòng Tổ quốc còn thế. Trách chi cái anh chàng Việt kiều Hoàng Chính nào kia ở cuối thế kỉ hai mươi lênh đênh xứ người, nhớ về Tổ quốc là nỗi nhớ Tiếng Việt, nhớ tiếng mẹ đẻ, là nhắc nhau nhớ đến Nguyễn Bính: Mười một năm trời đi biệt xứ / Em còn nhớ tiếng Việt Nam không?/ Lòng còn xôn xao Thơ Nguyễn Bính? / Chuyện”Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” (Gửi vầng trăng lưu lạc). Nguyễn Bính là tiếng vọng cội nguồn trong lòng kẻ lưu lạc. Nguyễn Bính là tiếng trở mình của rặng tre trong lòng kẻ tha hương. Nguyễn Bính còn là cái tiếng Việt trong lòng đứa con xa đất mẹ... Ai đó nói trong mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Sau bấy nhiêu năm, tưởng cũng có thể nói, trong mỗi chúng ta đều có một Nguyễn Bính, kể cả những ai muốn chối bỏ điều đó. Sức đeo bám của Nguyễn Bính trong hồn mỗi người Việt lớn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Sau ca dao có lẽ chỉ Nguyễn Bính mới có nổi sức đeo bám này. Hồn quê trong mỗi chúng ta bây giờ chẳng phải còn có tên là Nguyễn Bính ư?

Và khi rời khỏi cố hương ra với đời sống của mình chốn đô thị, tôi cũng luôn thấy nhớ Nguyễn Bính. Các đô thị càng mọc lên, các cao ốc càng chất ngất, càng thấy nhớ Nguyễn Bính. Nguyễn Bính như là cái gì đang mất lại vừa như một cái gì không thể mất. Là cái vô hình luôn hiện hữu, là cái hiện hữu mà vô hình.

*

Nhưng cái tên Nguyễn Bính đến với tôi từ bao giờ?

Người ta thường thích nhớ về “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Tất nhiên, có khi nhớ được, có khi chẳng còn nhớ nổi, tất cả cứ nhoè lẫn nhạt nhoà. Phần mình, với Nguyễn Bính, thì tôi chẳng thể nào quên. U tôi, chị tôi có ru tôi bằng Nguyễn Bính hay không? Kí ức thuở nằm nôi, nằm võng không thấy vọng lên câu nào. Còn như Kiều, Chinh phụ, Trương Chi, Hoàng Trừu, Tống Trân, Phạm Tải... thấy nhiều hơn. Trong tuổi thơ tít tắp của mình ở xứ Thanh, tôi thường đi phụ giúp u tôi làm trên lò gốm. U tôi là thợ vần, cả đời tay thì vo đất sét, chân thì đạp bàn xoay, cùng thợ chuốt làm ra đủ thứ chum, vại, thửng, hũ, cóng, ang... Các bà thợ vần, thợ chuốt vừa làm vừa tán đủ thứ chuyện, rồi hát hò, ngâm thơ, rồi tranh cãi nhau về nghĩa lí của câu tục ngữ này, câu thành ngữ nọ. Hôm ấy, một chị thợ chuốt còn trẻ, sau khi chuyện vãn, đã cất lời ngâm một đoạn khá não nùng mùi mẫn: “Em ơi em ở lại nhà / Vườn dâu em đốn mẹ già em thương...”. (Phải khi vào cấp ba tôi mới biết nó là “Lỡ bước sang ngang”). Đến chỗ “đêm nay là trắng ba đêm...”, chị ta ngâm tiếp là “Chị thương chị kiếp con chim lạc đàn”. Lập tức, tôi nghe thấy tiếng phản đối của một bác thợ lò:“con chim lìa đàn chứ sao lại lạc”. Đang ngâm, bị cắt ngang, khác nào bị chẹn họng, và chắc là không chịu được cái giọng chỉnh kẻ cả, chị kia cãi lại gay gắt: Cái ông này, vô duyên! Người ta nói chim lạc đàn chứ ai nói lìa đàn bao giờ! Thế mà cũng đòi sửa! Bác thợ lò thấy cần phải đè bẹp đối thủ, phải thắng triệt để nên ra điều sành sỏi chữ nghĩa: Lạc thì thường, thì non nghĩa. Lìa mới lạ, mới già nghĩa, chữ mới chín. Đang bay cùng mà phải lìa khỏi đàn, thì mới đau chứ...” Rồi bác ta còn bảo, nếu không chịu, mai sẽ mang nguyên văn lên cho xem. Chị ngâm thơ đành ấm ức mà im lặng.

Cũng mãi sau này, tôi mới ngớ ra rằng, đó có lẽ là cuộc tranh luận về ngôn ngữ thơ đầu tiên mà mình được chứng kiến.

Bởi cái lẽ “đầu tiên” ấy mà găm rất sâu vào lòng trí non nớt của tôi cái hình ảnh con chim lìa đàn. Nó cô lẻ. Nó côi cút. Thoi thót suốt tuổi thơ tôi. Lúc bấy, tôi không ngờ, và có lẽ ngay cả Nguyễn Bính khi viết câu ấy cũng không thể ngờ “con chim lìa đàn” đã thành chân dung tự hoạ (hay tự ám?) da diết nhất của Nguyễn Bính.

Thực ra, khi đọc thi sĩ này, thấy bướm trắng bướm vàng bay loạn trong thơ ông, một đôi người bèn coi bươm bướm là biểu tượng chuẩn nhất cho Nguyễn Bính. Đúng là hồn thơ này cũng có ngất ngây chuyện bướm hoa, cũng sinh ra những bóng bướm quyến rũ. Nhưng cũng tựa như dáng chập chờn của nó, bươm bướm chỉ thuộc vào cái phần tình tang lẳng lơ, phần bâng quơ phù hoa của vườn thơ Nguyễn Bính thôi. Một lúc khác, Nguyễn Bính có ví nỗi cô đơn nhục nhằn trên đường đời của mình với con ngựa và người chị với chiếc thuyền nan - Em vốn đường dài thân ngựa lẻ / Chị thì sông cái chiếc đò nan / Quê người đứng ngóng mây lưu lạc / Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng. Nguyễn Bính sinh năm Mậu Ngọ (1918). Ví mình như con ngựa không chỉ là ý thức về thân thế long đong của mình, mà trong đó còn chứa cả một ý niệm về cái bản mệnh giời đày của mình nữa. Vẫn biết thân ngựa lẻ kia cũng chỉ là biến thể của cùng một cái tôi Nguyễn Bính. Song con chim lìa đàn vẫn cứ ám hơn cả. Nó vận vào thân phận nhiều trái ngang của thi sĩ. Nó mới thực sự là chân dung tinh thần chan chứa những sầu tủi của Nguyễn Bính. Mà trước hết là chân dung tự hoạ của cái Tôi trữ tình thi sĩ. Đó chẳng phải là một cá nhân đang tách ra khỏi bầy đàn, một cá thể đang tách khỏi đoàn thể, cái Tôi đang tách khỏi cái Ta? Nhưng với con chim kia, đó không phải là một cuộc vùng lên cao ngạo, bứt phá bướng bỉnh, vượt thoát bất cần. Mà đó là sự chia lìa. Nó không thể không tách ra, nhưng cái nó cảm thấy rõ khi vừa tách ra không phải vũ trụ dành riêng cho sự tung hoành, trái lại, là sự chơi vơi, là nỗi đơn côi. Lìa đàn là đánh mất điểm tựa vững chắc, mất vòng tay ôm ấp chở che. Lìa đàn, chưa tìm thấy mình đã đánh mất mình. Lìa đàn, bơ vơ giữa cõi, lưu lạc tìm đàn. Và hình ảnh con chim lìa đàn ấy thực sự là một ám ảnh trong tâm thức thi sĩ. Nó còn bay mãi trong hồn thơ Nguyễn Bính với những bóng dáng khác nhau: “Lẻ loi thân nhạn sang nam ấy”, “Thân em chẳng khác con chim non / Bơ vơ trong xứ người xa lạ”, “Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ / Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng?”...

2. Ra đời trong biến thiên

Bằng lòng với những ấn tượng chủ quan, xem ra là điều không thể. Cần phải trả Nguyễn Bính về với thời đại của ông, về với cuộc biến thiên chưa từng có ở chốn nước non bình lặng này [1] hồi đầu thế kỉ trước. Nguyễn Bính là con đẻ của cuộc biến thiên ấy hay nhân cuộc biến thiên này mà cái anh chàng thôn dân nghìn đời đất Việt đã lỡ bước sang ngang, đã hoá con chim lìa đàn mà thành ra Nguyễn Bính?

Cuộc biến thiên tầm cỡ như vậy, bao giờ cũng vừa là một cơn bão tàn phá vừa là một cơn trở dạ của lịch sử. Nghĩa là bao giờ cũng có hai mặt biện chứng: huỷ diệt và sinh thành. Sức mạnh phá hoại sẽ phá vỡ và phế bỏ nhiều cái cũ, mặt khác cũng nhân đó mà nhiều cái mới nảy nở sinh sôi. Phá huỷ dọn đường cho sinh thành, sinh thành biện minh cho huỷ diệt. Nó chi phối thực tại đời sống như một qui luật không thể cưỡng được. Tất cả đều bị cuốn vào quĩ đạo vừa vô hình vừa hữu hình của nó. Cuộc biến thiên đó muốn đập vỡ một thế giới cũ để cho một thế giới mới ra đời. Nên điều thật khó tránh là, trong những cái bị tàn phá một cách say sưa, sẽ lẫn vào không ít những giá trị thiêng liêng thuộc vào hàng bảo vật của giống nòi. Không chỉ trên qui mô toàn xã hội, mà ngay trong mỗi một con người cũng đương diễn ra một cuộc biến thiên ngấm ngầm: con người mới đang đòi phải phế bỏ con người cũ. Mà chia lìa con người cũ bao giờ cũng đau đớn. Bởi thế trong xã hội cũng như trong mỗi cá thể, đều hình thành hai thế lực: cách tân và bảo thủ, hai ham muốn: một đằng quyết giành quyền sống một đằng quyết giữ quyền sống [2]. Tương ứng với nó là hai thái độ, hai tâm thế thời đại: háo hức cái mới và lưu luyến cái cũ. Trong cái háo hức, bên cạnh sự táo bạo nhạy bén, có cả những nôn nóng vội vàng. Trong niềm lưu luyến, song hành với thái độ thủ cựu khư khư ôm lấy những phản giá trị đã cổ hủ, lỗi thời, kệch cỡm, là nỗi thiết tha đến day dứt khắc khoải trước những giá trị có nguy cơ bị phá phách, tiêu huỷ, biến suy. Mỗi tâm thế đều là một nguồn mạch trữ tình lớn của thời đại. Niềm thiết tha khắc khoải ngấm ngầm trong xã hội và lòng người kia cho đến 1918 đã tìm thấy người thi sĩ của nó. Làng Thiện vịnh, xứ đồng trũng chiêm khê mùa thối Vụ bản, Nam Định đã sinh ra cho nền thi ca Việt một cậu bé mà lớn lên sẽ lãnh cái sứ mạng thi sĩ kia. Nguyễn Bính là sự cất tiếng của con người Việt nghìn đời trong cuộc biến thiên vĩ đại mà đầy đau đớn đó. Và đây cũng là một lí do giúp ta hiểu vì sao, thơ Nguyễn Bính vẫn luôn làm xao động mọi tấm lòng Việt, tâm hồn Việt.

*

Mà con người Việt nghìn đời trong mỗi chúng ta là ai nếu không phải là con người tiểu nông với tất cả ưu nhược của nó? Trong một xã hội mấy nghìn năm “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” đó, anh chàng tiểu nông kia vẫn sống yên ổn. Đến nỗi ta những tưởng đó đã là cái bản thể bất di bất dịch. Nhưng trước cơn biến thiên lung lay đến tận cội rễ, chàng tiểu nông không thể còn yên ổn. Không thể như cũ, lại chưa thể theo mới. Ngậm ngùi với cái cũ, hoang mang trước cái mới. Bồn chồn, xốc xáo, không yên định là cõi lòng của nó. Nguyễn Bính là tiếng lòng bất an của anh chàng tiểu nông, là tiếng lòng bất an của thời đại. Đứt rễ khỏi đất cũ, chưa bén rễ vào đất mới, lòng thời héo hon, lá thời héo úa. Nguyễn Bính là tiếng lòng héo hắt của cuộc biến thiên kia.

Nền tảng tinh thần muôn đời của anh tiểu nông là con người cố kết, ý thức bầy đàn. Bầy đàn là chỗ dựa cho mỗi cá thể. Bầy đàn là vướng víu, nhưng bầy đàn là bình ổn. Bầy đàn là chốn giam thân, bầy đàn cũng là chốn nương thân. Cá thể bay nhanh trong bầy đàn, cá thể bay chậm cùng bầy đàn. Bầy đàn nhất nhất quyết định sức mạnh cá thể. Nhưng cơn biến thiên này đã khiến cá thể không muốn và không thể dựa dẫm vào bầy đàn. Mỗi cá thể cần phải là chính nó. Kẻ háo hức thì hân hoan thấy mình thoát khỏi kiềm toả của bầy. Kẻ nặng căn thì sầu tủi vì thấy mình phải lìa khỏi đàn. Nguyễn Bính là tiếng nói sầu tủi của con chim lìa đàn ấy.

Trong đời sống cổ truyền giá trị cá nhân được xác định dựa vào việc làm tròn bổn phận. Bổn phận là lẽ sống, cũng là điểm tựa bao đời. Bổn phận có thể là một ngáng trở, nhưng cũng là một bấu víu. Bổn phận vừa là cánh tay bó riết vừa là vòng tay âu yếm. Bổn phận khiến cá nhân phải hi sinh, bổn phận cũng làm nên sự cao cả cho cá nhân. Nhưng, trong cơn biến thiên này, tiếng nói của khát vọng nhất tề trỗi dậy. Đôi cánh khát vọng muốn tuông ra khỏi dây nhợ bổn phận. Thời trước, mỗi cuộc giao tranh giữa khát vọng và bổn phận thường được dẹp yên bằng ý thức hi sinh. Còn giờ đây cá nhân lại xác định giá trị của mình ở tầm vóc của khát vọng. Cho nên cuộc giao tranh hoặc biến thế giới tinh thần thành một đấu trường đẫm máu không có hồi kết, hoặc kết thúc bằng thất bại tủi sầu của bổn phận. Khát vọng chiến thắng. Nhưng là một chiến thắng đầy mặc cảm tội lỗi, dai dẳng không nguôi.
Nguyễn Bính là tiếng nói của cái tôi mang nặng mặc cảm đó.

Nội dung bao trùm của mặc cảm kia là gì?

Có thể nói đó là mặc cảm lỡ dở.

2. Cái tôi lỡ dở

Hơn chục năm trước, khi khởi thảo những mẩu đầu tiên về Nguyễn Bính (phân tích bài thơ Xa cách, viết với Nguyễn Đăng Điệp), tôi chủ trương khái quát Nguyễn Bính bằng hai chữ “lỡ làng”. Phần vì nó là chữ trở đi trở lại rất nhiều trong Nguyễn Bính, phần vì thấy đây là một bi kịch lớn, bao trùm lên thế giới thơ của thi sĩ này. Giờ đây, đọc vào Nguyễn Bính sâu hơn rồi, nhận rõ hơn tầm vóc của thi sĩ, tôi thấy chữ “lỡ làng” đuối nghĩa, đuối sức như con đò bé không còn chở Nguyễn Bính sang ngang được nữa. Chữ “lỡ làng” hợp với phận gái hơn, lại quá nghiêng về chuyện tình duyên. Trong khi, ngay cả lúc nước mắt lưng tròng - chỉ vài ngày hoen ướt đã hỏng mất một khăn hồng - thì Nguyễn Bính vẫn cứ là phận trai. Với lại, nỗi sầu tủi của Nguyễn Bính phải đâu chỉ có chuyện duyên phận lỡ làng, mà còn cả sự nghiệp dở dang - “Em đi dang dở đời mưa gió / Chị ở vuông tròn phận lãnh cung”, “Dang dở một thân nơi đất khách / Tết này ta lại ngắm hoa suông”... Vì thế tôi thấy chữ “lỡ dở” ưu thế hơn. Không phải vì muốn đổi một từ láy sang một từ ghép cho nén, cho đúc. Mà quan trọng là phải chữ ấy mới cưu mang được thân phận Nguyễn Bính, nghĩa là mới gồm được mọi hẩm hiu về cả duyên phận lẫn danh phận của cái tôi kia. Tìm đến chữ này để gọi Nguyễn Bính, tôi giật mình vì thấy: Tạ Tỵ trong cuốn Mười vẻ mặt văn nghệ đầu những năm 70 của thế kỉ trước đã tìm đến nó khi gọi Nguyễn Bính là “thiên tài lỡ dở”. Nhưng xem kĩ, thấy chữ Tạ Tỵ nghiêng về cái nghĩa chỉ con người thực: hoàn cảnh đã tạo ra Nguyễn Bính như là một thi tài dở dang, với một thái độ tiếc rẻ gần với Phan Ngọc - “Nguyễn Bính chỉ còn thiếu một hiểu biết Tây học nên không thành nổi nhà thơ đầu đàn...” [3]. Và chỉ có thế.

Phần mình, dùng chữ “lỡ dở”, tôi không chỉ muốn nói thơ Nguyễn Bính là sự lên tiếng của những cảnh ngộ oan nghiệt, những thân phận ngang trái. Mà quan trọng hơn, Nguyễn Bính là thi sĩ của cái lỡ dở, như một phạm trù trữ tình vậy. Bởi vì “lỡ dở” đâu chỉ là chuyện của riêng Nguyễn Bính, riêng của thời đại Nguyễn Bính, mà sau này và mãi mãi nó vẫn là một thảm trạng phổ biến của cõi nhân sinh. Có phải trên thế gian, thân phận nào cũng may mắn, cũng vinh hoa cả đâu. Ngay cả những kẻ nhiều hanh thông may mắn, có phải không từng nếm mùi lỡ dở đâu! Song hành với sự thành đạt của nhân gian, bao giờ cũng là sự lỡ dở. Mà đã lỡ dở, làm sao tránh khỏi tủi sầu bi phẫn. Bởi thế, đây quả là một nguồn lệ vẫn ngấm ngầm đây đó trong lòng thế nhân. Có điều, ở Nguyễn Bính, ở thời Nguyễn Bính, bi kịch ấy sắc sói hơn, đắng đót hơn. Ông sinh ra dường như để dành cho sự lỡ dở. Trời đày ông để ông phải làm tròn cái sứ mệnh oái oăm đó. Từ thân thế mình, Nguyễn Bính đã cất lên tiếng nói về một bi kịch trùm cả thời thế, mà mở ra tới cùng, cũng là một bi kịch nhân thế. Nếu thân thế Nguyễn Bính hanh thông, hẳn đã không có nghiệp thơ Nguyễn Bính.

*

Nghiên cứu tiểu sử nhiều nhà văn, lắm lúc thấy nghi ngờ cái tín điều đã thành mặc nhiên trong truyền thống: văn là người. Thực ra, chẳng phải nhọc lòng hoài nghi. Nó vẫn mặc nhiên là tín điều. Có chăng, cần phải hiểu thế nào về người thôi. Sự đồng nhất giản đơn con người sinh hoạt với con người văn chương thì rất dễ gây thất vọng, hẫng hụt. Bởi văn là sự lên tiếng của con người tâm linh, con người khát vọng. Khát vọng chân chính của một con người chính là biểu hiện tập trung cho bản chất của người ấy. Và do đó tầm vóc khát vọng cũng quyết định phần lớn tầm vóc của cá nhân. Tôi chưa biết anh là ai, nhưng hãy bộc bạch khát vọng của mình, tôi sẽ biết anh là ai. Cho nên, văn là người, là cái con người ấy. Tức con người bên trong, con người bề sâu, con người khát vọng. Nhà văn Nguyễn Khải có lần nói, không phải định thanh minh cho mình hay cho ai, rằng: đối với anh nghệ sĩ, phần tốt đẹp, cao quí nhất của tâm hồn đã trút vào văn chương hết rồi. Còn những gì thể hiện trong sinh hoạt đời thường, đôi khi chỉ là phần cặn bã của hắn mà thôi. Nguyễn Bính cũng thế thôi. Người ta đã kể ra chả ít chuyện nhếch nhác, bê tha, lôm loam của Nguyễn Bính trong sinh hoạt, giao du. Đời thường lắm chỗ sao mà trái cựa trái khoáy với con người trong văn chương đến thế. Nhưng bức chân dung tinh thần đích thực là thuộc về cái tôi bề sâu của nghệ sĩ. Cái tôi ấy tự hoạ trong văn chương ngay cả khi nó không hề tự giác. Nguyễn Bính đã trút vào thi ca tất cả những khát vọng sâu kín và cao quí nhất của mình. Cho nên chả vì cái bã bên ngoài mà nghi ngờ cái hồn bên trong. Cũng bởi sự không thể đồng nhất này mà trong nghiên cứu nghệ thuật mới cần phân biệt con người thi sĩ (ngoài đời) và cái tôi thi sĩ (trong văn). Cái tôi ấy là sự chung đúc của khát vọng. Nói cách khác, cái tôi là khát vọng thi sĩ được nhân hình hoá.

Và, theo tôi, cũng như những hình tượng nghệ thuật khác, hình tượng cái tôi là một nhất thể được tạo bởi sự hoà hợp (gồm cả tương tranh và chuyển hoá) của các đối cực.

*

Lỡ dở tạo nên cái tôi kia bắt đầu do sinh bất phùng thời. Hãy xuất phát từ nền tảng nhân cách của cái tôi được gọi bằng anh chàng nhà quê, là gã chân quê Nguyễn Bính: một thôn dân - nho sinh. Nhận diện cái tôi Nguyễn Bính, nhiều người chỉ thấy đó là một thôn dân. Nghĩa là chỉ thấy một phía. Mà chỉ thế thôi, thì chưa ra Nguyễn Bính. Không phải một thôn dân thuần tuý, Nguyễn Bính là thôn dân - nho sinh. Cái ta vẫn gọi là hồn quê Nguyễn Bính không phải một đơn chất. Trái lại, là hợp chất: con người thôn dân và con người nho sinh quyện với nhau trong một điệu hồn chung. Từ con người thực ngoài đời thành cái tôi trong thơ ca, Nguyễn Bính không chỉ mang theo cái lai lịch “con nhà nho cũ”, mà chất nho sinh còn hiện rất rõ trong cốt cách của cái tôi ấy. Biểu hiện tập trung nhất của nó hẳn là giấc mơ quan trạng.

Có thể nói, cái tôi ấy suốt đời vương vấn giấc mơ quan trạng. Trong thơ Nguyễn Bính, giấc mơ quan trạng luôn song hành với giấc mơ thanh đạm thanh bình. Bởi thế, nó trở thành giấc mộng đôi: cả con người nho sinh và con người thôn dân cùng mơ chung một giấc mơ về “thời trước”. Thời trước với chàng thôn dân là thời “trai hiền bạn với gái đồng trinh”, thời của “Hoa và rượu” - “Đời say men rượu thơm hoa rụng”, thời “Thanh đạm” vợ chồng thuận hoà, bạn bè tri kỉ: “Nhà gianh thì sẵn đấy / Vợ xấu có làm sao / Cuốc kêu ngoài bãi sậy / Hoa súng nở đầy ao / Mấy sào vườn đất mới / Giồng dâu và giồng cam / Không ngại xa người tới / Thăm tôi tôi cám ơn / Làng bên sẵn rượu ngon / Đêm nay ta đối ẩm / Tre nhà đương cữ ấm / Tha hồ là măng non / Đường làng không tiện xe / Sớm mai người hãy trẩy / Cây nguyệt nằm suông mãi / Tôi xin đàn người nghe”... Cảnh sống êm đềm thế chẳng phải là mơ ước nghìn đời của bất cứ thôn dân nào?

Còn với anh chàng con nhà nho cũ, thì “thời trước” là thời vợ tần tảo tầm tang, chồng dùi mài kinh sử, thời của giấc mơ hồ điệp, thời của hiển đạt vinh hoa. Hoặc trạng nguyên trở thành phò mã: “Ngựa bạch buông chùng áo trạng nguyên... lòng trạng lâng lâng màu phú quí, chờ “công chúa cài trâm thả tú cầu”. Hoặc quan trạng vinh qui về làng: “Chồng tôi cưỡi ngựa vinh qui / Hai bên có lính hầu đi dẹp đường / Tôi ra đứng tận gốc bàng / Chồng tôi cưỡi ngựa cả làng ra xem”, hạnh phúc thật là trọn vẹn, đã đầy, viên mãn: “Đêm qua mới thật là đêm / Ai đem giăng sáng giãi lên vườn chè”... Đó là cái thời lí tưởng mà nho sinh nào cũng hằng mơ ước, khát khao, hi vọng. Thời ấy đáp ứng được cho con người cả chuyện công danh lẫn chuyện nhân duyên, cả khao khát nhân sinh của một con người, cả nhu cầu thẩm mĩ của một nghệ sĩ.

Dù đã vào thơ theo qui luật điển hình hoá, nhưng một cái tôi bao giờ cũng nảy nở từ con người thực ngoài đời của thi sĩ. Vốn là con nhà nho cũ gắn với thôn quê, “thời trước” đương nhiên là cái mẫu lí tưởng của Nguyễn Bính. Nhưng cái “thời trước” kia chỉ còn trong cổ tích, trong truyện nôm khuyết danh, trong những tích chèo mà không khí thanh bình vinh hoa của nó từng tưới tắm cho mơ mộng của Nguyễn Bính một thời. Ngày thì theo đòi búi tó củ hành với cậu ruột mình một nho sĩ thôn Vân, đêm thì chìm đắm trong những hội chèo thôn Đoài làng Đặng. Giờ đây, cuộc biến thiên lạnh lùng này đã bứt thế giới mộng kia khỏi hiện thời, thẳng tay ném vào dĩ vãng. Nó đã vĩnh viễn thành thế giới của hoài niệm. Bi kịch của cái tôi ấy ở chỗ: là con người của “thời trước”, nhưng lại sinh ra ở thời này. Tây học đã trục xuất Hán học khỏi đương thời, Hán học đành ôm hận lủi thủi đi về quá vãng. “Bây giờ thời thế biến thiên / Nhà vua không lấy trạng nguyên nữa rồi”. Thậm chí, “Khoa cử bỏ rồi thôi hết trạng / Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên. “Lỡ duyên búi tó củ hành / Trường thi Nam Định biến thành trường bay”. Hình ảnh đầy hấp dẫn của những Tống Trân, Nguyễn Hiền vĩnh viễn xa vời. Nhưng điều oái oăm là: Nguyễn Bính chỉ có thể được sinh ra bởi cuộc biến thiên đầy mất mát ấy. Giống như sự hỏng thi trường kì mới sinh ra Tú Xương vậy. Nếu không chúng ta có thể có thêm một quan trạng một ông nghè ông cống nữa để rồi những học vị chức danh ấy tan ra mây khói, và sẽ hoàn toàn không có một thi sĩ chân quê, không thể nào có nổi một tác giả “Lỡ bước sang ngang”.

Nhưng cái tôi Nguyễn Bính không chịu lìa bỏ hẳn. Và đây chính là một khía cạnh điển hình cho tâm trạng lãng mạn. Chỗ này, cái nhìn lí giải đòi hỏi chúng ta phải xem xét rộng hơn một chút. Trước kia, người ta thấy mối bất hoà với thực tại chỉ là cơ sở tâm lí riêng của khuynh hướng lãng mạn. Thực ra, bất hoà với thực tại là cơ sở tâm lí phổ biến của nghệ sĩ. Nếu niềm khát khao một hình thái lý tưởng lúc nào cũng thiêu đốt lòng nghệ sĩ, thì cũng có thể nói, bất hoà với thực tại phải được xem như thuộc tính nghệ sĩ. Tất nhiên chữ bất hoà cần được hiểu với các cung bậc khác nhau: không thoả mãn, không bằng lòng, không hoà nhập, không chấp nhận thực tại. Nếu bằng lòng với thực tại, tức là lí tưởng đã bị tiêu tan. Do đó niềm khát khao khiến anh thành nghệ sĩ cũng tiêu tan rồi. Nhưng vì sao bất hoà? vì nghệ sĩ bao giờ cũng thấy thực tại chưa đáp ứng được cả nhu cầu tồn sinh lẫn nhu cầu thẩm mĩ. Nghĩa là chưa đáp ứng được khát khao về hạnh phúc và khát khao về cái đẹp. Thậm chí, trước một thực tại nào đó, ở mức cực đoan tột cùng, nó còn thấy thực tại thù địch với hạnh phúc chân chính của con người, thù địch với cái đẹp. Thế là, từ một gốc chung là mối bất hoà, mà các khuynh hướng nghệ thuật có những ứng xử khác nhau. Sự khác nhau bao trùm của các khuynh hướng, có thể nói, cũng bắt đầu từ những phép ứng xử. Lãng mạn thì đào sâu vào chủ quan vẽ ra một thực tại trong mơ ước để thay thế thực tại bên ngoài. Hiện thực lại đi thẳng vào thực tại ngoài đời để phân tích nó, phanh phui nó, phê phán nó. Trong khi khuynh hướng cách mạng dường như lại muốn cải biến nó. Vậy thực tại một kẻ lãng mạn mơ ước là thế nào? Đó là thực tại trong hồi tưởng, huyễn tưởng, viễn tưởng. Hồi tưởng đưa nó về với quá khứ vàng son, với thời oanh liệt, phục hiện lại những dư âm dư ảnh, những hình sắc còn sót lại của một thời, mà nó cho rằng chỉ ở đó, cái đẹp và hạnh phúc mới tồn tại. Huyễn tưởng dẫn nó vào cõi yêu, cõi tiên, cõi ma, cõi đạo, vào tiền kiếp. Viễn tưởng lại dẫn nó đến một tương lai xán lạn mãi tận tít mù khơi... Cái tôi Lãng mạn Nguyễn Bính thì tìm về đâu? Về “thời trước” - “Thời trước làm sao thật thái bình”. “Thời trước” thực là thiên đường đối với một thôn dân - nho sinh. Chàng chỉ còn đến được với cái thiên đường riêng ấy của mình bằng một cách duy nhất: mơ thôi. Nguyễn Bính đã không ít lần ngán ngẩm kêu lên: “Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi!”. Tuy nhiên, mơ mộng lại là một đời sống, một lối thoát tinh thần không thể thiếu của gã thôn dân - nho sinh lỡ thời ấy.

Đó mới chỉ là một phía của bi kịch lỡ dở.

*

Không thể thành quan trạng với giấc mộng vinh hoa, không thể ở thôn hương với giấc mơ thanh đạm. Cả gã nho sinh lẫn gã thôn dân đều đã mất đi cái đích của mình. Cả hai nhất trí đồng tâm rời khỏi quê mình, dấn thân vào quê người. Trên con đường tha hương ấy, họ đã hoà vào một nhân cách mới, một diện mạo mới: thi sĩ lãng tử. Và thế là mở ra một bi kịch mới. Nó là bi kịch tiếp nối mà cũng là bi kịch nhân đôi. Gã thi sĩ giang hồ này muốn nhập cuộc mà không xong. Đời sống giang hồ đòi hỏi kẻ lãng tử phải quăng thân vào phong trần cát bụi, lấy lênh đênh làm đời sống, làm hạnh phúc. Muốn thế, phải có máu phiêu lưu. Trong khi đó, phiêu lưu lại không có sẵn trong gien tiểu nông của gã giang hồ bất đắc chí này. Nên tình trạng tinh thần của gã là sợ phiêu lưu mà lại dấn bước giang hồ. Chàng thi sĩ này không tìm thấy chất thơ thông thường của tiêu dao tang bồng, không thấy cái thú siêu thoát lãng mạn của ngao du sơn thuỷ. Trái lại, mỗi bước lênh đênh là một bước long đong. Dù chỉ là “giang hồ vặt”, thì kẻ giang hồ vẫn luôn chỉ thấy mình bị vây khốn giữa bao bất trắc, chỉ thấy cám cảnh cho cái phận nổi trôi giời đày của mình, chỉ cảm thấy thật chua chát: giang hồ là một cuộc đày ải - “Cúi mặt soi gương chén rượu đầy / Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ...Không hiểu vì đâu hai đứa lại / Chung lưng làm một chuyến đi đày”.

Cũng không có sẵn trong gien tiểu nông kia cái cao ngạo của một cá nhân khi thoát li khỏi bầy đàn. Rời bỏ mái nhà sinh trưởng, cái tôi lên đường, sau cái khoảnh khắc cảm thấy tự do hết sức ngắn ngủi, nó lập tức cảm thấy trống phía sau lưng, hẫng dưới chân bước. Tình trạng của nó là tình trạng của một con diều đứt dây. Bơ vơ là cái thường xuyên dày vò nó. “Bơ vơ trong xứ người xa lạ”, “Trơ vơ trên bến nước sông đầy”... Lòng nó không có cái hùng tâm tráng chí kiểu trượng phu hành đạo vì nghĩa lớn, đã đành. Mà ngay cả cái lâng lâng khoái thú của một cái tôi đang lên đường tìm kiếm bản thân cũng không có. Không có phấn hứng thấy thế là mình đã trưởng thành, đã tách khỏi “bầu nước ối” của mái nhà sinh trưởng. Cái mà nó thấy đúng là: Xểnh nhà ra thất nghiệp, như bao người mẹ tiểu nông vẫn ái ngại cho con cái.

Trong cái gien tiểu nông đó cũng không có sẵn cái lạnh lùng của kẻ sẵn sàng khước từ bổn phận để mặc sức đuổi theo khát vọng. Khi ở thì thấy khát vọng là trên hết, bổn phận là vướng víu. Khi đi bỗng thấy khát vọng là ích kỉ, bổn phận mới thiêng liêng. Thế là mặc cảm lỗi đạo hành hạ nó, càng bước đi xa càng nặng nề trầm trọng. Lỗi đạo với quê hương, lỗi đạo với gia đình. Nó thấy mình là kẻ tệ bạc, phụ bạc: “Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh / Tôi đi dan díu với kinh thành”, Đứa thương cha yếu thằng thương mẹ / Cha mẹ chiều chiều con nước mây”, nhiều khi cái tôi ấy đã nức nở trong day dứt vì té ra mình là đứa con hư đốn bất nghĩa: “Con đi mười mấy năm trời / Một thân bé bỏng nửa đời gió sương / Thầy đừng nhớ mẹ đừng thương / Cầm như đồng kẽm qua đường đánh rơi / Thày mẹ ơi! Thày mẹ ơi / Tiếc công thày mẹ đẻ người con hư...”. Tóm lại, là giang hồ trong mặc cảm. Mặc cảm bơ vơ. Mặc cảm lỗi đạo, tệ bạc. Khí chất và lương tâm của con người tiểu nông cổ truyền trong thâm căn cố đế của cái tôi kia bị xốc xáo lên trong cơn biến thiên đó.

*

Có thể nhận rõ hơn diện mạo của cái tôi Nguyễn Bính trong tương quan với đương thời.

Cái Tôi Thơ mới thường nghiêng về sự hả hê bởi được giải phóng khỏi cái Ta. Nếu cô đơn, thì thường là khi phải đối diện với vũ trụ mênh mông, khi không có một cái Tôi khác để gắn bó. Nguyễn Bính khác. Trước hết, về Nguyễn Bính mà nói bằng cô đơn, không ra. Nguyễn Bính là nỗi đơn côi. Khác nhau có một chữ, nhưng là hai hồn vía. Không phải ngẫu nhiên mà mặc cảm chia lìa, mặc cảm bơ vơ lại bám riết lấy tâm tư Nguyễn Bính suốt cả đời không chịu buông tha. Nhìn đâu cũng thấy chia lìa: “Con sào đẩy sóng thuyền nan lìa bờ”, “Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn”, “Chán chường như lũ tàn quân lìa thành”, “Những cuộc chia lìa khởi tự đây”, “Anh em li tán lâu dần thành ra”, “Lìa cành theo gió lá luồn qua song”, “Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ”... Nhìn đâu cũng thấy côi cút, đơn chiếc, vô định: “Hồn đơn chẳng có nơi nương tựa”, “Hồn đơn quằn quại xác gầy”, “Muôn vàn đơn chiếc đổ vào đầu tôi”, “Một người đi mấy mươi người nhớ thương”, “Ta đi nhưng biết về đâu chứ”, “Anh đi đó! Anh về đâu?”, “Nào biết về đâu kẻ ngước xuôi”, “Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng”... Điều này không thể không có nguyên uỷ sâu xa từ ẩn ức mồ côi của Nguyễn Bính (mới ba tháng đã mất mẹ, rồi cha đi bước nữa, phải ở với người cậu, dù có được bù đắp đến đâu thì bản tính đa cảm của thi sĩ vẫn cứ trầm mình trong mặc cảm côi cút, bơ vơ). Nhưng mặc cảm này, oan trái thay, lại khiến cho hồn thi sĩ cảm nhập được và mang chở được nỗi niềm lỡ dở của cả thời đại ấy. Nghĩa là nỗi côi cút đầy bất hạnh kia bỗng trở thành cái giá oan nghiệt mà Nguyễn Bính phải trả cho cái nghiệp thi sĩ của mình. Hay nói theo giọng khách quan thì nhờ bi kịch cá nhân mà Nguyễn Bính đã cảm thông với bi kịch của thời đại. Vì thế, cái Tôi Nguyễn Bính là nỗi đơn côi vì mất đi điểm tựa thiêng liêng nơi cái Ta. Lìa khỏi cái Ta, cái Tôi ấy dày vò về Mất hơn là tự mãn về Được. Đơn côi trong tình ái. Đơn côi giữa xứ người. Đơn côi giữa đô thị. Đơn côi cả khi đã về tới cố hương.

Về bình diện văn hoá, Nguyễn Bính là con đẻ của cuộc hôn nhân đầy lỡ dở giữa nền văn minh đô thị hiện đại với văn minh thôn dã cổ truyền. Khác xa với những cái tôi thuần đô thị, Nguyễn Bính là cái tôi - phản - đô - thị. Lúc nào cũng mang nặng mối “sầu đô thị”. Cứ tưởng Nguyễn Bính chỉ là đứa con ra đời từ cuộc hôn phối giữa làn mưa xuân trong lành với giậu mồng tơi dân dã. Nào ngờ lẫn trong làn mưa kia có chút bụi kinh thành. Cái chút bụi mơ hồ đã âm thầm lớn lên thành ý hướng giang hồ. Và chính nó đã xúi giục Nguyễn Bính lên đường dấn thân vào cát bụi với những cuộc giang hồ vặt, khi sa vào bất đắc chí. Sang đò, bước lên bậc bến thứ nhất để vào thế giới đô thị quê người, Nguyễn Bính đã gửi lại bên kia bờ tất cả vườn cam mái gianh, bướm trắng tơ vàng, giàn giầu hàng cau... Nhưng rốt cuộc, Nguyễn Bính lại bắt đầu cuộc tìm kiếm chính những thứ ấy giữa phố xá đô thành mà không tự biết. Hẳn nhiên, làm sao có thể thấy những thứ ấy trong cát bụi chốn này. Con đường kiếm tìm loanh quanh kia tất lại dẫn cái tôi ấy trở về với nơi mình từ giã.

Nhưng, một khía cạnh rất đáng nói là: bi kịch của cái tôi kia không có tận cùng. Sinh ra từ cuộc tình đương giữa hồi dang dở giữa Đô thị và Thôn quê như thế, Nguyễn Bính đã cố chạy theo tìm sự cưu mang của từng phía, nhưng cả hai đều chối bỏ, mỗi bên phụ phàng theo một cách riêng. Thoạt đầu ánh sáng kinh thành huyễn hoặc, anh chàng chân quê đã tưởng có thể gửi mình vào đó, tìm thấy trong hứa hẹn của nó những vinh hoa. Nhưng cuối cùng, chỉ là phù hoa: “Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng / Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị”. Chán chường, chàng tìm lại chốn quê. Nguyễn Bính về quê không phải như Đào Uyên Minh “qui khứ lai từ” bởi quá chán ngán cảnh luồn cúi nơi trường đào mận. Không phải như một nhà nho thành đạt và chán ngán, về quê theo lẽ xuất xử hành tàng, về ở ẩn lánh đời. Mà cái Tôi Nguyễn Bính về quê như một người suốt đời băn khoăn đi kiếm cách sống cho mình, suốt đời tìm kiếm công danh và chỗ đứng trong cái cuộc sống văn minh đô thị. Mà cuối cùng tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Công danh dở dang, duyên phận lỡ làng. Cố hương ngỡ bình lặng muôn đời là thế cũng không dung được một kẻ đã ngập hẳn về thôn ổ mà chẳng thể rửa sạch khỏi lòng mối sầu đô thị ăn sâu. Yêu lắm lắm những gì chân mộc của cố hương, nhưng giữa kẻ hồi hương và đất cũ đã có những ngăn cách vô hình không thể vượt qua: Không còn ai ở lại nhà / Hỏi còn ai nữa? để hoa đầy vườn / Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn / Anh về quê cũ có buồn không anh?... Một lần lỡ bước sang ngang là đơn côi vĩnh viễn. Nguyễn Bính là cái lỡ dở muôn đời ấy. Nó là một bi kịch không biên giới.

Trên bình diện đạo đức đơn thuần, cái tôi Nguyễn Bính là con đẻ từ sự lỡ dở của bổn phận và khát vọng, của chữ hiếu và chữ tình. Thời ấy, chữ tình được viết hoa và tô đậm hẳn lên, chữ hiếu mờ hẳn đi lùi lại sau hàng. Chữ tình muốn chia bào giã từ chữ hiếu, “em ơi em ở lại nhà / vườn dâu em đốn mẹ già em thương... Miếu thiêng vụng kén người thờ / Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em”. Nhưng vừa quay gót đã gục đầu xuống, úp mặt vào hai bàn tay mà nức nở tức tưởi: “úp mặt vào hai bàn tay / Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm”. Cái Tôi muốn khẳng định mình, nhưng khi từ giã mái nhà sinh trưởng, xa rời vòng tay của cái Ta, nó vừa thấy đơn côi yếu ớt lại vừa thấy mình là kẻ phụ rẫy đáng chê trách. Những bổn phận thiêng liêng ngày trước ràng buộc là thế. Mỗi khi cần chọn lựa, bao giờ nó cũng giành được vị thế độc tôn, tất cả những thứ khác đều phải nhượng bộ hi sinh. Nay khát vọng cá nhân bùng nổ, nó thấy mình là hơn hết thảy. Nó đòi phải được sống đã đầy. Nhưng ở trường hợp Nguyễn Bính, nó dứt áo ra đi chỉ để đạt được sự lỡ làng, còn bản thân nó thì luôn luôn dang dở. Lỡ bước sang ngang, bổn phận đã không tròn, khát vọng cũng chẳng thành. Dang dở vĩnh viễn. Nói ý thức cá nhân ở Nguyễn Bính khác xa với những trường hợp khác là thế. Nó không phải tiếng nói tự tôn, tự kiêu, tự đại một chiều cực đoan. Không phải cái Tôi hiếu thắng khi thoát khỏi cái Ta. Mà nó là cái tôi đầy mặc cảm. Lúc nào nó cũng thấy mình là kẻ tệ bạc với cái Ta đó. Thèm được thoát li khỏi cái Ta cố kết. Nhưng chưa thoát li đã lập tức thấy mình là kẻ sao mà bạc tình. “Mẹ cha thì nhớ thương mình / Mình đi thương nhớ người tình xa xôi”. Nhưng mà lại không thể khác. Cho nên mỗi bước đi trên đường đời là một bước ngoái lại thăm thẳm phía sau,“Thầy ơi đừng chặt vườn chè / Mẹ ơi đừng bán cây lê con giồng”... mỗi cuộc đi là một cuộc dày vò đày ải chính mình. Hành trình lìa quê cũng là hành trình của ăn năn, của khắc khoải cố hương. Chưa đi đã thấy ngay là mình vừa đánh mất một cái gì thiêng liêng hệ trọng nhất của đời mình, của cuộc sống này.

Tóm lại, cái tôi Nguyễn Bính từ bỏ quê để luôn khắc khoải nhớ quê, tìm vào đô thị để chán chường đô thị, tìm kiếm công danh chỉ gặp dở dang, theo đuổi tình duyên chỉ gặp lỡ làng. Dứt bỏ bổn phận để chạy theo khát vọng: bổn phận không tròn, khát vọng tan vỡ. Cái gì của nó cũng lỡ dở. Cho nên Nguyễn Bính là cái tôi lỡ dở của thời đại ấy. Tôi cho rằng chính Nguyễn Bính, chứ không phải ai khác, mới là nhà Thơ Mới mang đầy đủ tấn bi kịch của thời đại mình. Một tâm trạng bất đắc chí mênh mông dằng dặc.

Cái tôi Nguyễn Bính vẽ ra trong thế giới nghệ thuật của mình là một người cả đời cứ lang thang kiếm tìm chính mình. Càng đi, dường như càng lầm lạc, càng đi càng không thấy. Mọi hứa hẹn đều chỉ là ảo ảnh. Công danh, Hạnh phúc đều không thấy? Đều không dành cho mình? Đều không có? Cuối cùng cái tôi ấy hi vọng tìm thấy mình (tìm thấy mình hay tìm lại được mình? có lẽ là cả hai) khi đã về lại nơi mà mình đã từ bỏ một cách vội vàng nông nổi. Nhưng rồi Nguyễn Bính đã không tìm thấy. Không có chỗ nào cho mình. Đô thị không. Thôn quê không. Quê người không. Quê mình cũng không. Lìa đàn cũng có nghĩa là lạc loài. Nguyễn Bính là sự lỡ dở trọn kiếp con chim lìa đàn không chỉ trong cái thời đại lỡ dở đó.

4. Cố hương, cố nhân, cố viên

Tôi vẫn cho rằng thế giới nghệ thuật của một thi sĩ lãng mạn, xét đến cùng, là sự đan dệt của ba hệ thống hình tượng cơ bản: Tôi - Người tình - Thế giới. Trong đó đóng vai trò trung tâm và quyết định đến toàn bộ diện mạo của thế giới nghệ thuật ấy phải là hình tượng cái Tôi. Bởi vì, cũng lại xét đến cùng, toàn bộ thế giới nghệ thuật của một nghệ sĩ chính là thế giới tâm tình của nghệ sĩ được tượng hình hoá, hình sắc hoá mà thôi. Hình tượng Người Tình, về thực chất là một đối ảnh của chính cái tôi thi sĩ. Còn thế giới xung quanh bao giờ cũng là thế giới thuộc về cái tôi: hoặc cái tôi ấy đang phổ lòng mình vào thế giới, hoặc cái tôi ấy thấy thế giới xung quanh vận vào mình. Đối với một nam thi sĩ, bộ ba ấy là Tôi - Em - Thế giới. Chúng chẳng qua chỉ là tam diện nhất thể mà thôi. Nói một cách khác, thế giới nghệ thuật của nghệ sĩ là một cõi thống nhất, trong đó bất cứ một hình sắc nào cũng mang khí huyết hồn vía của cái Tôi kia. Thế giới Nguyễn Bính không nằm ngoài qui luật chung đó. Cái Tôi Nguyễn Bính sẽ phổ những lỡ dở của nó vào mọi hình sắc của cõi thơ ấy, mà đồng hoá tất cả thành những vang bóng của cùng một cái tôi, kể cả cố nhân, cố hương và cố viên.

Tôi muốn phức tạp hoá một chút xung quanh chữ “cố”. Chữ cố đầu tiên với Nguyễn Bính phải là “cố thủ”. Phải, thi sĩ của hồn quê đã cố giữ cho được chân quê. Chân quê với hồn thơ Nguyễn Bính tựa như đất mẹ đối với thần Ăngtê vậy. Nó là truyền thống, là giá trị văn hoá, là lẽ sống, là nguồn sống đối với hồn thơ quê. Nó là “của tin còn một chút này”, là vật thiêng, là bảo vật của đất quê. Cố giữ với hi vọng nó sẽ thoát khỏi cơn biến thiên. Vật đổi sao dời, tao đoạn qua đi, rồi vẫn sẽ còn chân quê thuần khiết. Nhưng ngay cả lúc “van em em hãy giữ nguyên quê mùa”, thi sĩ cũng đã thấy thật khó tin là nó không thay đổi. Trong cơn biến thiên ấy, “cả đến ông giời cũng đổi thay”.... kia mà! Nếu quả có một đức tin bất di bất dịch rằng chân quê bất chấp thời thế, dù có biến thiên thế nào, nó vẫn cứ là một hằng số, thì chắc chắn đã không có Nguyễn Bính. Thơ Nguyễn Bính là tiếng nói của lo âu chứ không phải của đức tin. Nó nghiêng về bồn chồn, phấp phỏng, hoang mang hơn là đinh ninh, xác tín, kiên định. Cơn biến thiên đang làm cho tất cả những gì Nguyễn Bính cố níu giữ trở thành xưa cũ. Nó gỡ khỏi tay, giằng khỏi tay Nguyễn Bính tất cả những gì thân thương nhất ném trả vào dĩ vãng.

Vì thế, mới có chữ “cố” thứ hai. Cố là “cũ”, là”xưa”. Phải, nói đến Nguyễn Bính là phải nói đến “Cố hương”, “cố nhân”. Mà nằm sâu trong lòng cố hương là “cố viên” (vườn cũ, vườn xưa), và nơi lưu giữ những kỉ niệm từng có với cố nhân cũng là “cố viên”. Cố hương, cố nhân và cố viên là những hình bóng da diết nhất trong cái vẫn được gọi bằng chân quê của Nguyễn Bính.

*

Một trong những nét giúp chúng ta phân biệt rất rõ Nguyễn Bính với các nhà Thơ Mới khác là quan niệm luyến ái. Quan niệm luyến ái của Nguyễn Bính nghiêng về truyền thống: tình yêu gắn liền, thậm chí đồng nhất với hôn nhân. Nhân duyên trong thơ Nguyễn Bính không có chủ trương những cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngoài thiên thu [4]... theo điệu sống hiện đại mà những cái tôi thuần đô thị bấy giờ chủ trương và hăng hái. Trái lại, chưa gì đã toan tính chuyện trăm năm. Cứ thích trói buộc nhau vào hôn nhân với những cau trầu “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông / Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào!”. Vì thế mà, phải đận cau héo, giầu vàng thì đôi bên trầm luân trong nước mắt của mặc cảm phụ phàng. Thế giới tình yêu của chàng thôn dân - nho sinh là một thế giới hoà hợp êm đềm dựa trên một luyến ái quan truyền thống. Nhưng cơn biến thiên đã làm cho cái thế giới tình yêu cổ truyền kia bị vỡ vụn. Cái tôi thành một tình nhân lỡ dở. Thế là tất tật mọi thứ đều lỡ dở theo.


*


Ngoài hình tượng cái tôi, nhân vật của Nguyễn Bính thuộc về hai đối tượng lớn: tình nhân lỡ dở và những thân phận lỡ dở khác. Nghĩa là, thế giới Nguyễn Bính đều là những mảnh đời lỡ dở. Tình nhân lỡ dở có hai dạng: thứ nhất, không có được - do lỡ dở mà giai nhân chẳng thành tình nhân; thứ hai, không giữ được - do một lỡ dở nào dó mà tình nhân đã trở thành cố nhân. Tất cả khiến cho mọi cuộc tình của cái tôi ấy [5] đều dang dở lỡ làng.

Này là những giai nhân có tên: nào Oanh (Oanh, Nhớ Oanh), nào Dung (Oan nghiệt), nào Nhi (Hoa và rượu)... Này là những giai nhân không tên: nào cô hái mơ già, người con gái ở lầu hoa, những cô gái miền sông Hương núi Ngự, người hàng xóm, người con gái vườn Thanh... Có những trường hợp do nàng lạnh lùng quá, giấc mộng nhân duyên cứ thế trôi xuôi rồi tuột mất: “Cô hái mơ ơi / Chẳng trả lời nhau lấy một lời / Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng / Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi”, “Rồi như sông Nhuệ lạnh lùng trôi / Cô lạnh lùng đi chẳng trả lời / Những tiếng lòng chàng tha thiết gọi / ở trên gác vắng lạnh lùng ơi!”. Có lúc chính những dẩm dở không đâu đã làm ra dang dở. ấy là cái đám cô nàng nhà lắm bưởi nhiều hoa. Ngày nào cũng cất công “đường gần tôi cứ đi vòng cho xa” rồi, thế mà ma xui quỉ khiến thế nào lại “lên cơn sĩ diện hão”, suy bụng ta ra bụng người: “Một hôm thấy cô cười cười / Tôi yêu yêu qúa nhưng hơi mất lòng /Biết đâu rồi chẳng nói chòng: / Làng này khối đứa phải lòng mình đây”, thế là lỡ duyên: “Từ ngày cô đi lấy chồng / Gớm sao có một quãng đồng mà xa / Bờ rào cây bưởi không hoa / Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo”. Cũng có khi do nàng bèo bọt quá “Nàng bèo bọt quá em lăn lóc”,“Em đi dệt mộng cùng người / Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh”, vả chăng, em cũng không phải là không bèo bọt: “Hàng xóm có người con gái lẻ / ý chừng duyên nợ với nhau đây / Chao ôi ba bốn tao ân ái / Đã đủ tan tành một kiếp trai / Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ / Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày / Khăn gói gió đưa sang xứ lạ / Ai cười cho được lúc chia tay”. Mà thường khi là do những cách trở xa xôi “Nhớ Oanh tôi nhớ cô Oanh / Xa xôi cách trở hỏi tình thắm phai”. Rất nhiều khi là bởi những cách trở không đâu: “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn”. Có thế thôi mà hai người đành sống giữa cô đơn, và rồi cuối cùng mùng tơi cách trở đã hoá thành âm dương cách trở: “Đêm qua nàng đã chết rồi / Nghẹn ngào tôi khóc qủa tôi yêu nàng”. Họ vĩnh viễn chẳng thể thành đôi lứa. Đau đớn tiếc thương thì đà quá muộn. Cũng không ít cuộc họ đã có được nhau, họ đã thề thốt đủ đằng, nhưng rồi những dự cảm mơ hồ về rủi ro, những ám ảnh khôn nguôi về nghèo túng, lo sợ vì đồng tiền làm cho khốn đốn, hay đơn giản chỉ vì những xui khiến tối tăm nào đó... thế là kẻ lỡ duyên, người lỡ thì, đâm ra lỡ cả đôi đường. Giai nhân lỡ dở hoá thành cố nhân: “Xây bao nhiêu mộng thế mà / Đến nay phải gọi người là cố nhân”.

Không biết do mình lỡ dở nên chỉ toàn chú ý đến những phận lỡ dở - đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu? đồng bệnh tương liên? “cùng một lứa bên trời lận đận”? - hay do những kiếp lỡ dở cứ ám vào mình, mà thế giới nhân vật Nguyễn Bính toàn những mảnh đời lỡ dở. Người mẹ goá này tiễn con đi lấy chồng (Lòng mẹ), người mẹ goá khác đang dằn lòng uỷ thác bầy con dại cho đứa con gái lớn để mình đi bước nữa (Bước đi bước nữa), ông chồng chết non trăng trối người vợ trẻ những lời đắng chát (Giối giăng), cô gái miền rừng van xin người yêu:“Nhà em cách bốn quả đồi / Cách ba ngọn suối cách đôi cánh rừng / Nhà em xa cách quá chừng / Em van anh đấy anh đừng thương em”. Cô gái phải cầm lòng từ chối lời ngỏ của người yêu vì gia cảnh nặng nề, “Chưa trọn đạo con, tròn nghĩa chị / Lòng nào dám tưởng đến duyên tơ”. Rồi thì cô lái đò, anh lái đò dang dở giấc mộng tình duyên, dở dang giấc mơ quan trạng, dở dang đến mọi toan tính đường đời: “Lang thang anh dạm bán thuyền / Có người giả chín quan tiền lại thôi”. Rồi nàng trinh nữ vội lìa đời khi mới chớm xuân xanh, ngang trái tang thương đến nỗi cái tôi ấy tưởng như cả “kinh thành Hà nội chít khăn xô”... Nhưng có lẽ điển hình nhất cho những mảnh đời lỡ dở đó phải là cô gái trong “Mưa xuân” và người chị “Lỡ bước sang ngang” (Nhiều bài khác Nguyễn Bính sẽ gọi đích danh là chị Trúc - Thư gửi chị Trúc, Khăn hồng, Xuân Tha Hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương). Một cô bé vừa mới thành thiếu nữ khi những hạt mưa xuân đầu tiên lất phất bay về, lòng phơi phới nhận lời hẹn đầu tiên, vội vàng đến với cuộc hò hẹn đầu đời. Thế mà lỡ: “Chờ mãi anh sang anh chả sang / Thế mà hôm nọ hát bên làng / Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn / Để cả mùa xuân cũng lỡ làng”. Thật là sái! Cuộc lỡ dở đầu đời ấy rồi sẽ như cái điềm chẳng lành, cái dớp định mệnh dễ làm dang dở cả những mùa xuân sau. Mình em lầm lụi trên đường về / Nào ngắn gì đâu một dải đê / áo mỏng che đầu mưa nặng hạt / Một mình thêm tủi với canh khuya”. Một người chị “đã liều nhắm mắt đưa chân” đến hai lần sang ngang mà lỡ bước vẫn hoàn lỡ bước. Cuộc tình thứ nhất kết thúc bằng: “Mười năm gối hận bên giường / Mười năm nước mắt bữa thường thay canh /Mười năm đưa đám một mình / Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên / Mười năm lòng lạnh như tiền / Tim đi hết máu cái duyên không về”. Thế rồi một chàng nghệ sĩ xuất hiện. Và chị lại quyết định sang ngang. Nhưng rồi tình cũng đoạn: “Rồi đêm kia lệ ròng ròng / Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về / Tháng ngày qua cửa buồng the / Chị về nhặt cánh hoa lê cuối mùa”, “Thế là tàn một giấc mơ / Thế là cả một bài thơ não nùng”... Những mảnh đời lỡ dở, ngang trái, oan nghiệt cứ châu tuần xung quanh cái tôi ấy. Mỗi bước đi trên đường đời là lại gặp những số phận dang dở lỡ làng. Thế giới thơ Nguyễn Bính chan đầy nước mắt đau thương. Đọc thơ Nguyễn Bính ai cũng phải mủi lòng cám cảnh.

Nhìn kĩ có thể thấy họ vừa là nạn nhân của cơn biến thiên trong thời ấy, vừa là nạn nhân của một thứ tiền duyên nghiệp chướng nào đó. Trong những năm được học chữ Hán cùng người cậu, hẳn các môn “nho y lý số”, chẳng ít thì nhiều, cũng đã nhập tâm vào cái anh chàng con nhà nho cũ kia. Để rồi lớn lên, cái nhìn lí số cũng nhuốm lên nhỡn quan của Nguyễn Bính, khiến thi sĩ nhìn nhận và lí giải cả mình và những thân phận lỡ dở như là bi kịch trớ trêu của số mệnh: “Trót đà mang số sinh ly / Bao giờ tôi mới được về cố hương?”, “Còn tôi giời bắt làm thi sĩ”, “Mẹ thì mất sớm giời đày làm thơ”, “Ai bảo mắc vào duyên bút mực / Suốt đời mang lấy số long đong”... Tất cả những con người ấy đều bị số phận đày đoạ trong nỗi lận đận bởi chữ tình chữ duyên. “Đoái thương thân chị lỡ làng / Đoái thương phận chị dở dang những ngày”, “Mẹ cũng không mong sướng lấy mình / Nhưng mà số phận bắt điêu linh”... Điều này cho thấy bi kịch lỡ dở biểu hiện trong thế giới thi ca Nguyễn Bính dường như vượt ra ngoài vòng thời thế, mà nó là chuyện của nhân thế. Nói cách khác, định mệnh đã chọn cái thời ấy để đày họ vào vòng trầm luân của cơn biến thiên.

*

Cũng phải thấy thêm rằng, thế giới nhân vật Nguyễn Bính rất gần gũi với những thân phận đau khổ trong văn học dân gian, đặc biệt là bao người phụ nữ tủi phận tủi duyên trong những bài hát than thân. “Thân em như hạt mưa sa / Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày”, “Em như giếng nước bên đàng / Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân”, “Thân em như miếng cau khô / Người thanh tham mỏng người thô tham dày”,“Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc / Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay”,... Các môtip dân gian đã từ ca dao dân ca nhập thân vào thơ Nguyễn Bính. Những mảnh đời lỡ dở hôm nay như là sự nối dài tự nghìn xưa. Những số phận nổi chìm, lận đận dang dở về công danh, lỡ làng về tình duyên nghìn đời nay sau những luỹ tre, bên những bến nước, những dòng sông... bao giờ cũng khiến con người xót xa cám cảnh. Vào cuộc biến thiên ấy, có thể họ có thêm những màu sắc mới, nhưng họ vẫn là những chị em ruột rà của những cô gái xưa, từng gửi lòng vào những tiếng hát than thân làm héo hắt những luỹ tre, dang dở những cánh đồng, goá bụa những thân cò thân vạc... Đúng là Nguyễn Bính viết nhiều về những mối duyên quê, nhưng là mối duyên lỡ dở oan trái. Nguồn lệ chảy trong thơ Nguyễn Bính vẫn chảy bao đời trong tiếng hát than thân.

Vì tha hương nên mới có cố hương. Cố hương chính là quê hương trong lòng kẻ tha hương. Có lẽ luôn ở trong nỗi khắc khoải của đứa con xa nên hình ảnh quê hương mới thân thương đến thế. Tôi không muốn nói rằng, trong lòng những người tại quê thì quê hương không đẹp. Nhưng đúng là niềm canh cánh, nỗi day dứt, cùng những đau đáu khắc khoải đã choàng lên hình sắc quê kiểng những chất thơ mà người không phải xa quê chẳng thể nào có được. Có thể vì miếng cơm manh áo, vì những xô đẩy trong đời, con người phải rời bỏ quê hương bản quán, phải li hương. Tiếng gọi bức xúc nhất bấy giờ là một tiếng gọi có phần ích kỉ: làm sao để sướng hơn. Nhưng rồi xa quê, con người nhân bản, con người tình nghĩa thức dậy. Nó thức dậy khi trong lòng ta vỡ ra một khoảng trống không gì bù lấp được. Khoảng trống thăm thẳm ấy chính là nỗi quê. Là nỗi vắng thiếu một điểm tựa trong tâm linh. Nó là một nỗi mồ côi. Mồ côi quê quán. Và nỗi hoài hương trở dậy, cồn lên trong lòng. Bấy giờ trong lòng con người lại thống thiết một tiếng gọi khác, tiếng gọi hoàn thiện nhân cách, bản ngã. Như thế, thời ấu thơ ta sống trong lòng quê, khi đi xa, quê sống trong lòng ta. Càng đi xa, quê càng thao thức trong lòng. Càng khổ nghèo càng thương nhớ. Quê thức dậy nghĩa là quá khứ thức dậy. Nghĩa là con người đang sống về ngày trước. Nhớ quê cũng chính là nhớ mình. Nhớ quê là đời sống bản thể, nếu như ai cũng thật sự có một bản thể. Nhớ quê là nhớ một phần đời của mình. Là nhớ cái thiên đường tuổi nhỏ. Vì thế, kẻ nhớ quê là kẻ bị mất thiên đường và đang khao khát trở lại thiên đường. Không phải chỉ được sống tuổi thơ trong sung sướng, trong tươi đẹp thì nó mới là thiên đường. Niềm luyến tiếc những phần đời đã qua bao giờ cũng có chức năng cải biến tất cả thành thiên đường hạnh phúc, bất chấp những cay đắng khổ ải. Không ai yêu sống, thiết tha sống bằng một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống. Cũng như thế, có lẽ không ai yêu quê nhớ quê bằng một kẻ phải xa quê, mất quê. Nguyễn Bính là tiếng nói cố hương trong kẻ xa xứ. Nguyễn Bính là nỗi hoài hương dằng dặc trong lòng kẻ li hương.

Tô Hoài đã thật tinh nhậy khi khẳng định rằng: “Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ từng câu Nguyễn Bính (...) Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bính vốn là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê” [6]. Niềm thiết tha với quê hương là cội rễ của những sáng tạo Nguyễn Bính nhất. Nhưng, phải nói thêm, niềm thiết tha kia chỉ thực sự thức dậy khi cái tôi ấy xa quê. Quê hương trong Nguyễn Bính chính là cố hương. Hơn thế nữa, là cố hương trong mặc cảm lỡ dở lưu đày: “Trót đà mang số sinh li / Bao giờ tôi mới được về cố hương”. Mặc cảm ấy đã khiến cho Nguyễn Bính tạo ra hình tượng thế giới trong thơ với diện mạo tổng quát như là trường lưu lạc lưu đày của những thân phận lỡ dở: “Em vốn đường dài thân ngựa lẻ / Chị thì sông cái chiếc đò nan / Quê người đứng ngóng mây lưu lạc / Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng”.

Đã thành trường lưu lạc thì đương nhiên mặc cảm này cũng sẽ khiến cảm quan thi ca Nguyễn Bính làm nốt phần việc tiếp theo: phân lập thực tại thành hai miền không gian đối lập: quê mình - quê người. Cái tôi luôn là kẻ trôi dạt từ miền không gian này đến miền không gian kia như những chuyến giang hồ nhưng thực ra là những chuyến lưu đày, vừa bởi chuyện áo cơm, vừa do sự đẩy đưa của cảnh đời, sự run rủi của số phận. Đến đâu cũng chỉ toàn lỡ dở. Chân bước tới quê người, lòng gửi nơi quê nhà. Quê người có khi được gọi theo đúng lời kẻ quê là “thiên hạ”, có khi là “xứ người”: “Bơ vơ trong xứ người xa lạ”, “Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ”, “Quê người đắng khói, quê người cay men”. Trong cái gọi là “quê người” ấy, đô thị là vùng nhân sinh gây sầu tủi nhất. Có lẽ trong cảm nhận của cái tôi kia, đô thị là hoàn toàn tương phản, thậm chí thù địch với thôn hương. Nếu quê mình là thiên đường thì quê người là chốn lưu đày. Nếu quê mình là nơi đoàn tụ, thì quê người là chốn lưu lạc. Nếu quê mình là vun trồng nuôi dưỡng, thì quê người, nhất là đô thị lại tàn phá tiêu huỷ. Nếu quê mình là thanh đạm bình ổn, thì đô thị quê người là nhiễu loạn bấp bênh. Nếu quê mình là thôn ổ nghĩa tình, thì quê người là “cái biển tiền người ta”. Nếu quê mình là đất lành nôi ấm, thì quê người là cái “sòng đời”. Hình tượng thế giới trong thơ Nguyễn Bính là sự đối lập ấy, nhiều khi cực đoan đến gay gắt. Coi cái tôi Nguyễn Bính là cái - tôi - phản - đô - thị, một phần không nhỏ còn bởi chính điều đó.

Quê mình, quê nhà của Nguyễn Bính hiện lên tập trung nhất ở gương mặt của thôn Vân, từ cảnh sắc đến con người, từ nhịp sống đến mọi nguồn sinh thú, tất tật đều bình dị mà thần tiên: “Thôn Vân có biếc có hồng / Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều / Đê cao có đất thả diều / Giời cao lăm lắm có nhiều chim bay / Quả lành nặng trĩu từng cây / Sen đầy ao cá cá đầy ao sen / Hiu hiu gió quạt trăng đèn / Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi / Ăn gỏi cá đánh cờ người / Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân./ Ơi thôn Vân hỡi thôn Vân / Nơi nao kết dải mây Tần cho ta / Từ nay khi nhớ quê nhà / Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân.”. “Ở đây vô số những trời xanh / Và một con sông chảy rất lành / Và những tâm hồn nghe rất đẹp / Từng chung sống dưới mái nhà tranh / Sao chẳng về đây múc nước sông / Tưới cho những luống có hoa trồng / Xuân sang hoa nụ rồi hoa nở / Cánh bướm vờn hoa loạn phấn hương / Sao chẳng về đây có bạn hiền / Có hương có sắc có thiên nhiên / Sống vào giản dị ra tươi sáng / Tìm thấy trong lòng một cảnh tiên.”. Ở chính giữa thôn Vân thân thương ấy là “Nhà tôi”: “Nhà tôi có một vườn dâu / Có giàn đỗ ván có ao cấy cần? Hoa đỗ ván nở mùa xuân /Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm / Em tôi là gái mười lăm / Quét sân chạy chợ chăn tằm sớm trưa / Thầy tôi dạy học chữ nho / Dạy dăm ba đứa học trò loanh quanh / Có gì, tiếng cả nhà thanh / Cơm ăn đủ bữa, áo lành đủ thay...”.

Có thể nói đó là thiên đường chân quê của Nguyễn Bính. Người ta vẫn thấy, trong dòng thơ quê, nổi lên những gương mặt Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ... Ai cũng viết về quê với những nét thật trìu mến. Đoàn Văn Cừ trội về tập tục quê, Bàng Bá Lân nổi về sinh hoạt quê, Anh Thơ vẫn được coi là mạnh về cảnh quê. Còn Nguyễn Bính dường như thâu gồm tất cả vào mình thành một thứ là hồn quê. Nguyễn Bính không thiếu cảnh sắc, không thiếu phong tục, cũng không thiếu đời sống trốn quê kiểng. Nhưng viết về bất cứ cái gì, Nguyễn Bính cũng gọi dậy cái hồn. Chính niềm thiết tha khắc khoải của một kẻ tha hương đã là ngọn gió nâng đỡ cho cánh diều hồn quê trong Nguyễn Bính luôn bay lượn. Chính niềm khắc khoải ấy mới mang lại hồn vía cho mỗi nét bút viết về chân quê của Nguyễn Bính. Căn nhà kia, mảnh ao kia, mảnh vườn kia, luống hoa, ruộng dâu nữa... có gì ghê gớm đâu mà bỗng nhiên lay động đến vậy? Đúng thế, chúng không được vẽ theo lối mĩ lệ hoá, tân kì hoá. Nhưng chúng sống trong một khí quyển riêng, hiện ra trong một vầng sáng riêng của mảnh hồn Nguyễn Bính. Mảnh hồn mang trong nó những dự cảm lo âu, những nỗi bất an của kẻ tha hương, nỗi bơ vơ của kẻ mất thiên đường. Nó chỉ còn biết tìm ở chốn kia, ở những thứ quê mùa kia sự bấu víu duy nhất. Đó cũng là mảnh hồn mồ côi bản quán hương thôn.

*

Có lẽ, cố viên là điểm tụ day dứt nhất của hồi ức cố hương. Viết về Nguyễn Bính, nhiều người đã đề cập đến vườn, như một môtip lặp đi lặp lại, một tín hiệu mang nhiều giá trị thẩm mĩ của thi sĩ. Điều ấy cho thấy việc tiếp cận Nguyễn Bính đã đi vào chiều sâu. Tiếc rằng, việc hình dung về nó đôi khi lại chệch ra ngoài vùng thi cảm Nguyễn Bính. Đúng là đối với một thôn dân, nếu ruộng nghiêng về chức năng sản xuất, thì vườn lại nghiêng về chức năng văn hoá. Nhưng dùng kí ức tập thể của tộc người Việt để giải thích, rằng quá trình dịch chuyển của người Việt là đi từ vườn xuống ruộng, theo nguyên lí tâm linh cái gì cũ hơn thì thiêng hơn, nên Nguyễn Bính viết về vườn nhiều hơn ruộng, thì đã thông thái một cách vô lối. Thơ Tagor (Ấn Độ), Thơ Lorka (Tây Ban Nha), thơ Puskin, Êxênhin, Paxternac (Nga), thơ Ôcxtaviô Pat (Mêhicô), thơ Rôngxa,Veclen, Apôline, (Pháp)... cũng đầy rẫy những vườn thì sao? Rồi cũng là thi sĩ Việt nam, những Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa... viết rất nhiều về ruộng thì sao? Trong họ không có kí ức tập thể của người Việt ư? Tôi cho rằng cần phải tìm nguyên nhân ở chỗ khác. Trước hết là từ đặc trưng của khuynh hướng Lãng mạn. Cũng hướng tới cái Khổ của con người, nhưng khuynh hướng lãng mạn chưa quan tâm nhiều đến cái khổ của lao động. Lao động chưa phải là đề tài thực sự của lãng mạn. Cái họ quan tâm nhiều hơn là nỗi khổ vì cô đơn của con người. Nếu quan tâm đến nỗi khổ trong lao động, hẳn nó phải nói đến ruộng nhiều hơn, vì nỗi nhọc nhằn trong vườn chẳng thấm gì so với trên ruộng. Đây cũng là điều phân biệt Nguyễn Bính với ca dao dân ca. Và quan trọng hơn là nguyên nhân từ chính Nguyễn Bính. Là thôn dân, nhưng Nguyễn Bính thuộc tip thôn dân - nho sinh. Đời sống hàng ngày ít gắn với ruộng, trái lại, gắn với vườn nhiều hơn. Đồng thời, nó cũng còn là cái tạng riêng của mỗi tâm hồn nữa. Có thể cùng trong một môi trường sinh trưởng, nhưng người này nặng nợ với vườn, người kia lại tha thiết với ruộng. Bởi vậy mà chúng có những vị thế khác nhau trong kí ức và trong thi ca từng người.

Nói ngay Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, cả ba đều có những ám ảnh vườn, nhưng mỗi vị một khác. Với Xuân Diệu là vườn tình, nó có bóng dáng của những hoa viên, nơi dành riêng cho luyến ái trần thế. Với Hàn Mặc Tử, vườn lại là “chốn nước non thanh tú”, có bóng dáng những vườn Êđen trong Kinh thánh, hay Đào nguyên trong văn chương Đạo giáo. Dù là tình tiên duyên tục thì vẫn cứ là vườn tình. Còn Nguyễn Bính, vườn là quê. Dù nhiều khi gắn với giấc mơ quan trạng, về thời trước (Thời trước, Xóm ngự viên, Bóng bướm, Truyện cổ tích, Hoa và rượu...), thì vườn vẫn là gốc quê, chân quê: “Hoa chanh nở giữa vườn chanh / Thầy u mình với chúng mình chân quê”. Vườn là cố hương: “Sương phủ lưng đồi rặng núi xa / Thương ôi, lữ khách nhớ quê nhà / Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ / Vườn cũ còn chăng cúc nở hoa?”. Vườn là cái nôi của tình mẫu tử: “Vườn cũ hoa mai chắc nở rồi / Cánh mai an ủi đến xa xôi / Mẹ ơi! một sớm thăm hoa rụng / Nhặt giữ giùm con dăm cánh thôi!”. Vườn là hương hoả tiên tổ, là chốn đi về, là nơi bén rễ đầu tiên, cũng là nơi bám rễ cuối cùng của đứa con trôi dạt chân trời góc biển: “Xin thầy mẹ cứ yên tâm / Đừng thương nhớ một vài năm con về / Thầy ơi đừng chặt vườn chè / Mẹ ơi đừng bán cây lê con trồng”. Trong lời van xin ấy, ta có thể nghe thấy rõ nỗi bất an của một linh hồn trước nguy cơ bị bật gốc khỏi cố hương, nguy cơ bị tước đi điểm bấu víu cuối cùng. Ta có thể thấy rõ hơn về ý nghĩa của cố viên đối với Nguyễn Bính, khi cái tôi ấy có ý thức rành mạch mà chua xót về vườn nhà mình (quê mình) và vườn nhà người (quê người): “Em giồng được một cây lê / Hẹn bốn năm nữa thì về hái hoa / Nhưng là vườn đất người ta?Mình là khách trọ một và đêm thôi”. Dù hoa có đẹp thì lòng vẫn cứ dửng dưng, lạnh lẽo, vì đó là hoa vườn người, nở cho người, mang tết đến cho người, chứ đâu phải cho mình: “Hoa mai quán trọ trắng như sương / Chen với hoa đào dưới khóm dương... Quán trọ xuân này hoa lại nở / Lại ngồi xem tết tết người ta”. Nỗi chua xót này là mối tâm cảm của một lữ thứ, một kẻ đơn côi. Nhưng ta cũng thấy âm u ẩm ướt trong ấy, mối xúc động kiểu tâm lí tư hữu thuộc con người tiểu nông - chỉ thực sự thấy an vui khi nó là “của mình”. Lãng mạn Nguyễn Bính, căn bản, vẫn là lãng mạn tiểu nông.

Mà, nhớ về vườn thì không thể vắng thiếu những cây cỏ thảo mộc thân thương. Đọc thơ Nguyễn Bính có thể thấy hiện tượng phổ biến này: mỗi thi phẩm thường có một nền tảng không gian vườn tược, và mỗi một mối tình hay gắn với một cái cây. Vườn kia, cây kia có khi là nơi nảy nở, có khi là chốn tiêu tan, có khi là chứng nhân, có khi là nạn nhân của một mối duyên lỡ dở nào đó. Nào là cây chanh: “Hoa chanh nở giữa vườn chanh”, cây cam: “Ra vườn nhặt những hoa cam rụng / Về bỏ đầy nồi cất nước hoa”, cây bưởi: “Bờ rào cây bưởi không hoa / qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo”, cây mai: “Nhà nàng ở gốc cây mai trắng”, cây dương: “Nhà ta ở dưới gốc cây dương”, nào là cây cau, giàn giầu: “Nhà em có một giàn giầu /Nhà anh có một hàng cau liên phòng”, cây chè: “Sáng giăng chia nửa vườn chè / Một gian nhà nhỏ đi về có nhau”, cây dâu: “Cành dâu cao lá dâu cao / Lênh đênh bóng bườm trôi vào mắt em”, cây mùng tơi: “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn”, rồi thì cây xoan: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay / hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy...Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay / Hoa xoan đã nát dưới chân giày”, cây lê: “Tháng ngày qua cửa buồng the / Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa”, mà chả ít khi là cây không tên: “Ngày qua ngày lại qua ngày / Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”... Không ít tứ thơ được lập theo cách xoay quanh những cái cây nào đó (Chân quê, Qua nhà, Tương tư, Mưa xuân, Cô hái mơ, Người hàng xóm, Thời trước v.v...).

Lối cấu tứ ấy khiến cho không gian trong mỗi bài thơ Nguyễn Bính từa tựa như một sân khấu nhỏ, trên đó bài trí một cảnh quê, mà ở trung tâm của cảnh bao giờ cũng phải là một cái cây nào đó, vừa để tạo cảnh trí, vừa như một đạo cụ để nhân vật của một mối duyên quê lỡ dở tựa vào mà thổ lộ tâm tư. Ví như thi phẩm “Ngày trước”, cấu tứ xoay quanh vườn chè, “Mưa xuân” xoay quanh hoa xoan, “Cô hái mơ” xoay quanh rừng mơ, hay “Qua nhà” xoay quanh cây bưởi: Thi phẩm mở ra những hứa hẹn với cây bưởi đầy hoa: “Lối này lắm bưởi nhiều hoa / Đi vòng để được qua nhà đấy thôi”, nhưng rồi lỡ dở. Nàng đi lấy chồng mất rồi, thế là bưởi ta cũng không ra hoa nữa. Những thứ khác cũng buồn lây mà cô quạnh trống không: “Bờ rào cây bưởi không hoa / Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo”. Đặc điểm này cho thấy phần sâu sắc nhất trong hồn thơ Nguyễn Bính hoàn toàn thuộc về đất quê. Quê không chỉ đi vào cảnh vào tình, mà đã can thiệp rất sâu vào cấu trúc hình tượng cũng như cấu tứ của các thi phẩm.

*

Niềm thiết tha với cố hương cũng đem lại cho hồn thơ Nguyễn Bính một phân lập tương ứng về thời gian. Trong bốn mùa, Nguyễn Bính nghiêng về Xuân hơn cả. Mùa hạ thường đem lại cho thi sĩ những ức chế, mùa thu mùa đông khắc sâu niềm mất mát khổ đau. Chỉ có mùa xuân mới thực là mùa của hồn thơ Nguyễn Bính. Điều này cũng dễ hiểu. Mùa xuân là lúc thời gian bắt đầu một vòng quay mới. Đất quê lại vào kì mang mẻ sinh sôi. Cả xứ đồng lại khởi sắc. Thiên nhiên hồi sinh sau những ngày tháng già cỗi tiêu điều. Lộc xuân nảy nở trong đất, trong cây, trong hồn người. Sau những nhọc nhằn vất vả, người quê được chút mát mặt đón xuân. Người ta tạm quên đi những nỗi lo đồng tiền bát gạo tháng ba ngày tám để sống trong rộn ràng lễ hội. Những đêm tình mùa xuân đây đó nơi những đám hội chèo, bên những vệ đê, trong những vườn cam, dưới những gốc bưởi... Mùa xuân còn là mùa của cuộc đoàn tụ thiêng liêng đối với kẻ tha hương. Nhất là vào dịp tết, vẫn cứ trôi dạt xứ người thì cái tôi ấy càng thấm thía nỗi đơn côi. Những lúc như thế, tỉnh rượu tàn canh, tiếng gọi cố hương càng dội sâu vào cõi lòng trống hoang cô quạnh. Mùa xuân là mùa của nỗi hoài hương dằng dặc (Xuân tha hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương...). Ta hiểu vì sao, cái duyên quê của cố hương trong thơ Nguyễn Bính chỉ đậm đà vào lúc xuân về: “Đã thấy xuân về với gió đông / Với trên màu má gái chưa chồng / Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm /Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong / Từng đàn con trẻ chạy xun xoe / Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe /Lá nõn cành non ai tráng bạc / Gió về từng trận gió bay đi / Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng / Lúa thì con gái mượt như nhung / Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng / Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng / Trên đường cát mịn một đôi cô / Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa / Gậy trúc dắt bà già tóc bạc / Tay lần tràng hạt miệng nam mô”.

Có thể nói, khi phân lập thành quê mình - quê người, Nguyễn Bính đã có những quan niệm thật dứt khoát. Quê người có thể có các mùa, nhưng không thể có mùa xuân. Đặc biệt, khi quê người lại là đô thị, kinh kì thì nhất định: “Kinh kì bụi quá xuân không đến”. Chẳng những không có xuân, mà đó còn là chốn chôn vùi những mùa xuân: “Giữa nơi thành thị gió mưa phai / Chết dần từng nấc, rồi mai mốt / Chết cả mùa xuân, chết cả đời”. Mùa xuân chỉ về với quê mình. Mùa xuân là độc quyền của quê mình. Quê mình như một xứ sở vĩnh viễn xuân. Đó không hẳn là sự thiên vị trong cảm nhận thời gian của cái tôi tiểu nông nhất nhất coi “làng mình là hơn cả”. Xét đến cùng, nó xuất phát từ mặc cảm lỡ dở, mặc cảm đơn côi của một con chim lìa đàn “bơ vơ trong xứ người xa lạ”, hoài niệm cố hương đã làm cho mảnh đất quê hiện lên với bao ưu ái. Như là nơi cứu rỗi cho linh hồn côi cút bơ vơ.

Đối với Nguyễn Bính, chất thơ quyến rũ nhất của đất trời xuân chính là mưa xuân. Mưa xuân là đặc sản của thiên nhiên xứ bắc, cũng là đặc sản của hồn thơ Nguyễn Bính. Hoàn toàn có thể gọi Nguyễn Bính là thi sĩ của mưa xuân. Trong màn mưa xuân, cố hương hiện lên thân thương thế mà cũng thần tiên đến thế. Trong số những thi sĩ viết về mưa xuân, chỉ có Nguyễn Bính mới có cái ngơ ngác này: “Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân / Tơ nhện vừa giăng tơ trắng ngần / Bươm bướm cứ bay không ướt cánh...Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa”, cũng chỉ có Nguyễn Bính nghe ra giọng chuông ẩm ướt, mới nhận thấy thời gian luyến không gian, luyến cảnh bằng màn tơ phảng phất lơ lửng, nửa như sương đậm nửa mưa thưa ấy: “Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ / Chiều xuân lưu luyến không đành hết / Lơ lửng mù sương phảng phất mưa”. Không biết Nguyễn Bính phải cám ơn mưa xuân hay mưa xuân phải mang ơn Nguyễn Bính, khi những lời thơ mang được hồn mưa nhập vào hồn Việt. Nhất là những câu: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay / Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”. Đọc những câu như thế mới thấy ngay trong cả những gì mơ hồ không đâu nhất, vẫn cứ rưng rưng lên những điệu hồn quê, phơi phới lên những nét duyên quê. Quyện trong hơi thơ ấy có nhịp tim đầy hi vọng của cô gái quê sắp đi đến cuộc hò hẹn đầu đời, mà xem ra còn lẫn cả nỗi phấp phỏng của một cái tôi vốn đầy dự cảm lo âu về những lỡ dở cứ đợi con người đâu đó nữa. Tôi muốn nói, ngay trong từng hạt mưa xuân hư thoảng đương tô điểm cho cố hương, cũng mang một phần hồn cái tôi lỡ dở. Nó khiến cho niềm cố hương tha thiết đến se lòng.


Chu Văn Sơn

[1] Chữ dùng của Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam.
[2] Chữ của Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam.
[3] Phan Ngọc, “Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt nam trong giai đoạn 1932-1940”, Tạp chí Sông Hương, số 3+4/1992.
[4] Chữ dùng của Lưu Trọng Lư, Bài diễn thuyết tại nhà khuyến học Quy Nhơn (tài liệu đã dẫn).
[5] Phải nói là “của cái tôi ấy” là để tránh đánh đồng con người thi sĩ ngoài đời và cái tôi thi sĩ trong thơ. Nhà thơ Trúc Đường, anh trai Nguyễn Bính, tiết lộ rằng: Nguyễn Bính chỉ hiện ra như một nạn nhân đáng thương trong thơ thôi. Còn ngoài đời, Nguyễn Bính “gặt hái” không phải là ít.
[6] Tô Hoài, “Lời giới thiệu”, Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, Hà Nội, 1986, tr.19-23.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Ba đỉnh cao Thơ Mới: Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử, Kỳ 6: Nguyễn Bính và “kiếp con chim lìa đàn” (tiếp)

5. Giọng điệu của hồn quê

Đọc Nguyễn Bính, có lẽ người Việt nào cũng cảm thấy rõ tiếng thơ ấy mang đậm bản sắc dân tộc, mang đậm hồn quê. Người ta nhận ra điều này rất sớm, ngay khi những tiếng thơ đầu tiên của Nguyễn Bính vừa mới cất lên. Nhưng mảnh hồn quê đó là thế nào thì thật khó hình dung, khó nắm bắt. Hoài Thanh và nhiều người nghiên cứu khác cũng cho rằng đó là vấn đề không thể hiểu được bằng lí trí [1].

Nhưng chẳng nhẽ lại chỉ bằng lòng với những cảm nhận thuộc về cảm tính? Trên thực tế nhiều người nghiên cứu sau Hoài Thanh đã cất công tìm kiếm. Người ta phát hiện ra cách Nguyễn Bính bộc lộ tâm tình của mình gắn liền với cây cỏ thảo mộc chốn thôn quê: cây chanh, cây bưởi, cây cam, cây chè, giàn giầu, hàng cau, giậu mồng tơi, khóm cải hoa vàng, hoa cỏ may... với các địa danh đặc quê: thôn Đoài, thôn Đông, thôn Vân, làng Đặng... với những vật cảnh hương thôn: giếng thơi, giếng đá, đầu đình, bến đò, con sông, vệ đê, bãi đay, vườn dâu... với những bóng dáng thôn dân: anh lái đò, cô lái đò, cô gái dệt, gã thư sinh, cô hái mơ, cô hàng xóm, người mẹ già tầm tang tấm mẳn... với những tập tục: ngày tết quê, cảnh vinh qui, cảnh vu qui, đám hội chèo, đám lễ chùa, lễ kì an...

Đành rằng trong mỗi một sự vật dù nhỏ nhoi nhất đều ít nhiều mang chút hồn quê. Nhưng dầu sao đó mới chỉ là một phía, phía đối tượng.

Mình đối tượng không thôi, chưa đủ đem lại hồn vía cho một thi phẩm cũng như cho một tiếng thơ. Vả chăng, nếu chỉ do đối tượng thì trong thơ của các thi sĩ khác thuộc dòng thơ quê đương thời và cả sau này nữa đều nhan nhản những đối tượng ấy, nhưng sao ta không thấy đậm đà hồn quê. Như thế, nhân tố quyết định không phải là đối tượng. Mà phải là chủ thể: chủ thể phải có được điệu hồn quê. Nghĩa là tuy điệu hồn kia thuộc về cá nhân thi sĩ, cất lên từ cá nhân Nguyễn Bính, nhưng nó phải là điệu tâm hồn chung (hoặc một nét sâu sắc thuộc điệu hồn chung ấy) của dân quê từ bao đời nay. Không có nó bao trùm lên toàn bộ những cảnh vật kia thì khó mà dậy lên được hồn vía trong mỗi tiếng thơ quê của Nguyễn Bính.

Thực tế, điệu tâm hồn cũng là một khái niệm không kém phần “mông lung”.

Tuy vậy, tạo nên cái gọi bằng điệu tâm hồn có vẻ “bất khả tri” kia, không thể không có một yếu tố ít nhiều xác định: điệu cảm xúc. Chữ “điệu” vẫn được dùng trong tiếng ta vốn nhiều nghĩa. Nét nghĩa được nói đến ở đây chính là những đặc điểm về hình thức, là việc hình thức hoá thành những kiểu cách, những mẫu hình ổn định. Chữ “điệu” trong các chữ dáng điệu, nhịp điệu, vần điệu, giai điệu, làn điệu, nhạc điệu, thanh điệu, ngữ điệu, giọng điệu... về căn bản theo nghĩa đó. Cho nên điệu cảm xúc, có thể hiểu là những dạng cảm xúc đã được điệu thức hoá, hình thức hoá.

*

Gần mười năm trước, trong tham luận “Về bản sắc dân tộc và một hướng kiếm tìm nó trong thơ”, trình bày tại Trường viết văn Nguyễn Du, nhân hội thảo về “Vấn đề tính dân tộc trong thơ” (4-1994) [2], tôi có nói đến một hướng tìm bản sắc qua khái niệm “điệu thơ”. Dường như mỗi một dân tộc vẫn có một (hoặc một số) điệu thơ đặc trưng của mình. Người ta thường phải tìm nó trong thơ ca dân gian. Bởi thơ ca dân gian của một dân tộc bao giờ cũng thể hiện đậm nhất tâm hồn riêng của dân tộc ấy. Khảo sát thơ ca dân gian Việt Nam, tôi thấy nổi lên hai điệu cơ bản: một là, điệu than (phổ biến nhất trong những câu ca than thân); hai là, điệu ghẹo (phổ biến trong những câu ca giao duyên). Hai điệu này song hành và nhiều khi cũng hoà trộn vào nhau. Mà trong đó, điệu than có phần đậm hơn. Đây là điệu thơ dễ làm động lòng người, dễ làm mủi lòng người Việt nhất. Đơn giản vì nó cất lên từ cuộc sống cơ khổ dằng dặc của người Việt nghìn xưa. Ngọn nguồn của điệu than là nỗi cơ cực khốn khổ truyền kiếp của người tiểu nông bao đời. Giới nghiên cứu văn học dân gian cũng có một nhìn nhận gần gũi về nguồn gốc và nội dung của ca dao dân ca. Một nhà nghiên cứu viết: “cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ và tiếng hát cất lên thành tiếng hát thở than về mọi nông nỗi khổ đau và bất hạnh của kiếp người”, “Dân ca - ca dao dẫu khai thác bao nhiêu đề tài, rút lại căn bản cũng là những biến tấu của hai “lời” ấy: dân ca - ca dao xưa chủ yếu là tiếng hát than thân phản kháng và là tiếng hát yêu thương tình nghĩa của tất cả những người lao động và bị áp bức trong xã hội cũ” [3]. Đời này qua đời khác, điệu than náu sẵn trong hồn người như một dây tơ lòng, có thể ví như dây đàn bầu vậy, chỉ thoảng nghe một hơi thơ phảng phất điệu than thở, là dây tơ ấy động ngay, rung ngay. Nói khác đi, điệu than chính là một mảnh hồn Việt.

Tôi muốn minh hoạ thêm bằng trường hợp bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa” qua cách luận giải rất đáng chú ý của Hoài Thanh để thấy ý nghĩa thực sự của điệu thơ này đối với việc đánh động những tấm lòng Việt: “Cày đồng đang buổi ban trưa / Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày / Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Đọc bài ấy, Hoài Thanh đã “yên trí đó là một trong những bài ca dao hay nhất của xứ ta từ trước”. Đến lúc có người bảo bài ấy gốc ở thơ Đường, con người sành thơ này đã rất ngạc nhiên. Ông tìm đọc và thấy đúng là như vậy, Lý Thân đời đường có bài: “Sừ hoà nhật đương ngọ / Hãn trính hoà hạ thổ / Thuỳ niệm bàn trung xan / Lạp lạp giai tân khổ”. Khương Hữu Dụng dịch: “Xới lúa, trời đứng bóng / Mồ hôi đổ xuống ruộng / Ai biết cơm trong mâm / Hạt hạt đều cay đắng”. So sánh, nhà phê bình đi đến kết luận “ý thơ rất giống: chắc không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Còn giọng thơ lại khác. Câu hai của bài ca dao thêm tiếng “mồ hôi thánh thót”. Câu ba thêm một tiếng kêu “ai ơi”. Câu bốn thêm cái ý “dẻo thơm” khiến cay đắng thêm bội phần cay đắng. Do đó mà toàn bài bỗng có cái giọng réo rắt, ai oán đã từng gặp phổ biến trong các bài ca dao của ta như: “Lao xao gà gáy rạng ngày / Vai vác cái cày, tay dắt con trâu /Bước chân xuống cánh đồng sâu / Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày / Ai ơi bưng bát cơm đầy / Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?”... Và Hoài Thanh khẳng định: “Có lẽ do ảnh hưởng của những câu ca dao ấy mà bài thơ Lý Thân đã trở thành tiếng kêu của người nông dân xứ ta ngày trước” [4]. Như vậy là nhờ giọng điệu thơ thay đổi nên nó không chỉ thay hình đổi dạng mà đã thực sự thay da đổi thịt, thay hồn đổi vía. Trong bài ca dao này, vậy là đã cư trú một mảnh hồn Việt. Trường hợp này, mảnh hồn Việt được phổ vào đó chủ yếu qua giọng thơ, điệu thơ, cụ thể là điệu than. Ta có thể thấy nó đặc biệt phổ biến trong tiếng hát than thân của người phụ nữ:

“Thân em như miếng cau khô / Người thanh tham mỏng, người thô tham dày”, “Thân em như dải lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”,“Thân em như hạt mưa rào / Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa / Thân em như hạt mưa sa / Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày”... Một tiếng thơ Việt đậm đà cái phong vị gọi bằng “hồn quê”, hay “hồn xưa đất nước” cũng thường được cất lên bằng điệu thơ ấy.

*

Điệu thơ về một mặt nào đó cũng là giọng điệu thơ. Khái niệm này hiện đang được nói đến khá nhiều, nhưng cách hiểu về nó chưa phải đã thống nhất. Đặc biệt, việc tìm kiếm ở nhiều người, thấy đi vào những yếu tố hoặc chung chung mờ nhoè, hoặc riêng lẻ vụn vặt. Tôi cho rằng giọng điệu là sự hoà hợp giữa nội dung cảm xúc và hệ thống chất liệu, mà trước hết là hệ thống sắc thái ngữ điệu. Nói như vậy để khẳng định: cái gọi là giọng điệu phải nằm ở sự hoà hợp thành một thể, một điệu thức nhuần nhị, chứ không phải là phép cộng giản đơn của từng yếu tố một.

Thơ Nguyễn Bính chủ yếu được viết bằng điệu than và điệu ghẹo, nhất là điệu than. Hãy đi vào những nét chính cấu thành từng giọng ấy. Đối với điệu than, nội dung cảm xúc căn bản của nó phải là xót thương và hờn oán. Thương người và thương mình, hờn giận bản thân và oán trách số kiếp. Bởi vậy nguyên uỷ của nó căn bản là nỗi bất hạnh trong đời. Đơn giản là: có Khổ thì có Than. Chúng ta đều biết, nỗi bất hạnh bởi lao động nhọc nhằn và bởi bất công xã hội chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của các thi sĩ Lãng mạn - khuynh hướng Hiện thực quan tâm đến nó nhiều hơn. Nỗi bất hạnh ám ảnh ngòi bút chàng thi sĩ lãng mạn Nguyễn Bính nhiều nhất là nỗi lỡ dở của con người. Cụ thể là lỡ làng trong tình duyên và dở dang trong sự nghiệp. Đây không chỉ là nỗi bất hạnh của chính cái tôi Nguyễn Bính, mà còn là nỗi bất hạnh dằng dặc giáng xuống bao kiếp đàn bà đàn ông cơ khổ lầm lụi sau những luỹ tre nghìn đời nay. Họ đã từng trút những lời thở than sầu tủi vào những câu ca buồn, đã úp mặt vào hai bàn tay của ca dao dân ca mà vùi sâu những tiếng nấc nghẹn. Cho nên hướng tới mối bất hạnh này cũng là sự tiếp nối một nguồn lệ từ nghìn xưa, là mang vào thơ mình những nông nỗi bao đời của người Việt trên đồng đất nước này.

Nội dung cảm xúc kia tự nó chưa thể trở thành điệu than, nếu như chưa tìm tới một hình thức biểu cảm phù hợp. Muốn thành điệu than, ít nhất nó phải chuyển tải bằng hai sắc thái ngữ điệu là kể lể và than vãn. Một nông nỗi là hậu quả của một cảnh ngộ, muốn than thở, trước tiên phải kể lể, giãi bày cái cảnh ngộ ấy, cái nông nỗi ấy để người nghe có thể thấu được khúc nôi. Vì điều này mà thơ Nguyễn Bính bao giờ cũng có yếu tố tự sự: cụ thể là có sự và có một giọng kể và lời kể. Nhà văn Tô Hoài đã có lí khi hình dung Nguyễn Bính giống như một người có tài kể chuyện: “ở mỗi xóm mỗi làng, thường thấy những bác thợ cày, thợ cối, thợ rèn, thợ ngoã, bà hàng nước vối, hầu như vùng nào cũng có những người giỏi đặt vè, nói tiếu lâm, pha trò, kể chuyện khéo đến nỗi “con kiến trong lỗ cũng phải bò ra”, ai cũng thích nghe, ví như cuốn truyện hay, đọc chẳng bao giờ muốn thấy trang cuối. Nguyễn Bính là một người tương tự”, “Nguyễn Bính chẳng khác một người tài kể chuyện, cứ nhẩn nha nói về mọi thứ quen thuộc quanh mình mà khiến ta phải chú ý” [5]. Đọc Nguyễn Bính có thể thấy hạt nhân của mỗi thi phẩm thường là một cái sự nào đó. Tất nhiên, vẫn là sự lỡ làng, sự dang dở từ một mảnh đời lỡ dở nào đó, mà thường khi là của chính cái tôi lỡ dở Nguyễn Bính. Này là sự lỗi hẹn ở mưa xuân, này là sự lỗi thề của người khách tình xuân, sự lỗi ước với tình quân của cô lái đò, này là sự bỏ lỡ cơ duyên với người hàng xóm, này là sự dở dang, lỡ làng mãi mãi của chị Trúc một lần Lỡ bước sang ngang “Đoái thương thân chị lỡ làng / Đoái thương phận chị dở dang những ngày”... Mạch thơ được triển khai do vận động của những cái sự như thế. Nên mạch liên kết của các thi phẩm Nguyễn Bính chủ yếu dựa vào một cái cốt (truyện) nào đó. Và mạch được dẫn dắt bởi những lời kể, mà đặc trưng của nó là trần thuật, tái hiện lại sự kiện như những tình huống diễn ra trong không gian thời gian:“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn...”, “Em là con gái trong khung cửi / Dệt lụa quanh năm với mẹ già / Lòng trẻ còn như cây lụa trắng / Mẹ già chưa bán chợ làng xa...”, “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông / Một người chín nhớ mười mong một người”, “Xuân đã đem mong nhớ trở về / Lòng cô lái ở bến sông kia / Cô hồi tưởng lại ba xuân trước / Trên bến cùng ai đã nặng thề...”, “Nhưng em ơi, một đêm hè / Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn / Dừng chân trên bến sông buồn / Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang...”. Có lẽ vì ham kể lể mà thơ Nguyễn Bính thường bộc lộ một cái tật: dông dài, và không hiếm bài đến mức dầm dề tựa như giời mưa ở Huế đúng như cảm nhận của chính thi sĩ vậy.

Song song và đan xen với kể lễ, phải là than vãn. Nghĩa là luôn thốt lên những lời cảm thương cho nỗi đau khổ, bất hạnh để mong có được sự đồng cảm xót thương. Đương nhiên, lối biểu cảm trực tiếp bằng thán từ, lối nặng nề hoá, trầm trọng hoá bằng cách cường điệu sẽ được sử dụng như là thủ pháp chủ đạo: “Lá ơi! và gió ơi! tôi biết / Tình chửa song đôi đã lỡ làng”, “Hai tay ôm lá vào lòng / Than ôi! chiếc lá cuối cùng là đây”, “Bao nhiêu ân ái thế là thôi / Là bấy nhiêu oan nghiệt hỡi trời”, “Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi / Hoa thừa rượu ế ấy tình tôi”,... Lối đay đả, chì chiết, chua chát được sử dụng như để làm cho giọng than vãn trở nên lâm li hơn thống thiết hơn: “Mình cô làm bận mấy mươi người”, “Mẹ phải xa con khổ mấy mươi”, “Một đi bảy nổi ba chìm / Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần”, “Khốn nạn tưởng yêu thì khó chứ / Không yêu thì thực dễ như không”, “Nàng đi Hà nội buồn như chết / Hà nội buồn như một lỡ làng”, “Nàng có ngờ đâu đến nỗi này? Lỡ làng chôn hết cả thơ ngây”, “Ngày qua ngày lại qua ngày / Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”, “Chờ mãi anh sang anh chả sang / Thế mà hôm nọ hát bên làng / Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn / Để cả mùa xuân cũng lỡ làng”, “Chị nay sống cũng bằng không? Coi như chị đã ngang sông đắm đò”.... Thơ Nguyễn Bính cứ như lời than thân trách phận, lời tủi phận tủi duyên cho mình và cho người. Và thơ Nguyễn Bính, do vậy, có cái điệu bao trùm là kể lể sự tình. Điệu thơ này quả là một ma lực đối việc chinh phục trái tim đại chúng, nhất là thôn dân. Nó dễ đồng điệu với điệu tâm hồn của người tiểu nông xứ ta. Tuy nhiên, than vãn tự nó cũng đã bao hàm một mặt trái. ấy là khi lạm dụng thở than, thì thơ lênh láng những nước mắt. Y như thơ của một người quá mau nước mắt vậy. Có lẽ Nguyễn Bính thiếu nhất sự tiết chế của một thi sĩ. Ông cũng ý thức khá rõ về điệu than thở của hồn mình: “Tôi rót hồn tôi xuống mắt nàng / Hồn tôi là cả một lời van”. Nhiều lúc muốn chấm dứt, cho hồn mình đỡ u ám, lòng mình đỡ nặng nề vì chính nước mắt than van của mình: “Em không khóc nữa không than nữa / Đây một bài thơ hận cuối cùng / Không than chắc hẳn hồn tươi lại / Không khóc tha hồ đôi mắt trong”. Nhưng khốn nỗi, nếu không than thở, thì Nguyễn Bính cũng không còn thực là Nguyễn Bính nữa. Bởi nó là điệu hồn của thi sĩ rồi.

*

Đọc Nguyễn Bính còn thấy một sắc điệu khác cũng rất đậm chất dân gian: ghẹo. Về thực chất đó là lối chòng ghẹo trong đời sống giao tiếp được đưa vào thơ ca. Nội dung cảm xúc thường là niềm khao khát kết đôi, kết duyên. Sát sạt hơn là khao khát “xé rào” ngăn cản, xoá bỏ khoảng cách, “mở lối” đến đối tượng, khai thông mối luyến ái. Ghẹo thực sự trở thành nhịp cầu đôi lứa bao đời. Chẳng thế mà trong dân ca có cả một loại hình là “hát ghẹo”. Nếu than nghiêng về âm tính - buồn, thì ghẹo lại nghiêng về dương tính - vui. Đằng là điệu cảm xúc của cái tôi khi đã lỡ dở, đằng lại là điệu tâm hồn lúc cái tôi đang “lăm le xâm lược”. Đằng thì thán, đằng thì tán. Phương tiện của nó là lối nói đùa vui, trêu chọc, đôi khi cả cợt nhả, bông phèng, miễn sao có thể lấn tới. Những cách nói lấp lửng, vòng vo, bóng gió, thậm chí cả nói “quàng xiên” nữa luôn được sử dụng như là “vũ khí” của giọng đùa ghẹo: “Đôi ta cùng ở một làng / Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh / Em nghe họ nói mong manh / Hình như họ biết chúng mình...với nhau”, “Bao giờ bến mới gặp đò / Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau”, “Cái ngày cô chửa lấy chồng / Đường dài tôi cứ đi vòng cho xa / Lối này lắm bưởi nhiều hoa / Đi vòng để được qua nhà đấy thôi / Một hôm thấy cô cười cười / Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất lòng / Biết đâu rồi chả nói chòng / Làng này khối đứa phải lòng mình đây”, “Hồn anh là hoa cỏ may / Một chiều cả gió bám đầy áo em”, “Mọi người hớn hở ra xem / Chỉ duy có một cô em chạnh buồn”, “Đêm qua mới thực là đêm / Ai đem giăng sáng giãi lên vườn chè”, “Đàn tôi đứt hết dây rồi / Không người nối lại, không người thay cho... Có cô lối xóm hàng năm / Trông dâu tốt lá chăn tằm hơn tơ /Năm nay đợi đến bao giờ / Dâu cô tới lứa tằm cô chín vàng / Tơ cô óng chuốt mịn màng / Sang xin một ít cho đàn có dây”, “Nàng về làm dâu nhà tôi / Vườn dâu nó thẹn với đôi tay ngà”... Người đọc thấy trong đó bóng dáng những lối nói ghẹo của những anh trai quê lém lỉnh, “tán như xiếc” trong ca dao xưa: “Đêm qua tát nước đầy đình / Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen / Em được thì cho anh xin / Hay là em để làm tin trong nhà... Mai mượn cô ấy về khâu cho giùm / Khâu rồi anh sẽ trả công / Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho”, “Trên trời có đám mây xanh / ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng / Ước gì anh lấy được nàng / Để anh mua gạch Bát Tràng về xây? / Xây dọc rồi lại xây ngang / Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân / Có rửa thì rửa chân tay / Chớ rửa lông mày chết cá ao anh”...

Giọng điệu bao giờ cũng là sự biểu hiện của thái độ cảm xúc. Nó là cảm xúc đã được hình thức hoá, điệu thức hoá. Mà cảm xúc chính là yếu tố quyết định đến cái hồn của một thi phẩm, cũng như của mọi thi phẩm. Vì thế tìm kiếm hồn quê trong thơ Nguyễn Bính không thể không quan tâm đến giọng điệu. Nếu điệu than - và cả điệu ghẹo nữa - được xem là những điệu thơ phổ biến trong dân gian, mang đậm mảnh hồn Việt, thì chính nó cũng là điệu thơ chủ đạo của Nguyễn Bính, là điệu hồn Nguyễn Bính. Thế giới thơ Nguyễn Bính thấm đượm điệu hồn ấy, chính là bởi Nguyễn Bính đã phổ điệu hồn mình vào trong từng sự vật quê kiểng, vào từng mảnh đời quê. Cho nên nó cứ man mác, bàng bạc đây đó, tưởng như nó hoàn toàn bên ngoài ta mà hình như lại có sẵn đâu đó trong mỗi chúng ta.

6. Con đẻ của câu lục bát nổi chìm nơi đồng quê

Về hình thức đơn thuần, Nguyễn Bính là đứa con được sinh ra khi ca dao ngầm giao duyên cùng Thơ Mới. Nhưng trong đứa con ấy, gien trội vẫn thuộc về ca dao. Nên Nguyễn Bính là tiếng đàn bầu vẫn lặng lẽ ngân rung trong lúc giàn giao hưởng tân nhạc của thơ đương thời đang diễn tấu mải mê dưới chiếc đũa chỉ huy của người nhạc trưởng toàn năng là cái Tôi cá thể. Song, nó không có cái mặc cảm lạc lõng, lạc thời. Trái lại, nó vẫn diễn tấu theo lối của mình, bằng dây tơ riêng của mình, kiên trì, tự tín. Vẫn cất lên điệu riêng của mình mà khiến người nghe phải chú ý, phải say mê. Tôi muốn nói, trong lúc phần đông đương cuốn theo sức hút khó cưỡng lại được của thơ tự do, thơ hiện đại, cải cách thơ mình theo lối mới, thì Nguyễn Bính về lại với câu lục bát dân gian vẫn chìm nổi bao đời nay nơi đồng quê. Về với nó, đối với Nguyễn Bính là về với hương đồng gió nội, về với chân quê.

Khách quan mà nói, những bài thơ hay của Nguyễn Bính thuộc về cả thất ngôn lẫn lục bát. Những câu vào loại hay nhất của Nguyễn Bính cũng có cả lục bát lẫn thất ngôn. Trong đó có những cặp thất ngôn mà người ta khó có thể quên được, ví như: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay / Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, “Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng phấn / Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên”, “Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả / Chén ứa men lành lạnh ngón tay”, “Chín hẹn đã sai mười: bạn quí / Nghìn voi không được một: người yêu / Bá Nha thuở trước còn Chung Tử / Kim Trọng ngày nay hết Thuý Kiều”... Tuy nhiên, ở thất ngôn, cái khí sắc Nguyễn Bính không đậm đặc, không nổi trội bằng ở lục bát. Có lẽ lục bát vốn ăn sâu vào lòng quê, bởi thế bản thân nó đã chứa đựng ít nhiều duyên quê, hồn quê rồi. Cho nên chỉ ở lục bát, hồn vía Nguyễn Bính mới nhập với hồn quê đến vậy, cả hai mới đồng thể, cất lên cùng một tiếng nói nhuần nhị nhất. Đến nỗi Nguyễn Bính đang nói những lời quê, hay hồn quê đang cất lời qua Nguyễn Bính thật khó mà phân biệt. Hồn vía Nguyễn Bính đã kí thác nhiều nhất vào lục bát. Nói đơn giản, ở lục bát Nguyễn Bính được là mình hơn cả. Nhiều người bạn Nguyễn Bính đã xác nhận rằng Nguyễn Bính làm lục bát dễ như người ta viết văn xuôi thường vậy.

*

Điểm mặt những cây bút lục bát nổi nhất của phong trào Thơ Mới, người ta vẫn nhắc nhiều đến hai gương mặt với hai phong cách khác nhau là Huy Cận và Nguyễn Bính. Nếu tác giả Lửa thiêng nghiêng về lục bát cổ điển, thì tác giả Lỡ bước sang ngang lại nghiêng về lục bát dân gian. Cả các nhà nghiên cứu và chính Huy Cận cũng tự thấy như thế. Nếu có sự phân biệt câu thơ thành “điệu nói” và “điệu ngâm”, thì có thể thấy: Huy Cận là lục bát điệu ngâm [6], còn Nguyễn Bính là lục bát điệu nói. Điều này cho thấy Thơ Mới trong khi căn bản đổi sang điệu nói, vẫn không quên mang theo hành trang của nó cả điệu ngâm để làm giàu cho mình. Và, không phải đến Thơ Mới, thi ca mới biết đến điệu nói. Điệu nói từ lâu đã là hình thức sẵn có của câu thơ dân gian. Nếu xem điệu nói là dấu hiệu hiện đại, thì câu thơ dân gian, tự nó đã chứa đựng tính hiện đại. Phải chăng vì mang sẵn trong mình yếu tố hiện đại ấy mà ca dao dân gian cứ trẻ mãi, cứ bất chấp các thời đại, bất chấp các cuộc biến thiên cả trong lịch sử lẫn thơ ca? Và qua trường hợp Nguyễn Bính, ta thấy: cứ đi sâu mãi vào truyền thống cũng là một hướng đổi mới? Thì trở lại những tinh hoa trong ngọn nguồn với một nhỡn quan mới cũng chính là một cách đổi mới chứ sao!

Nói kĩ hơn, câu thơ dân gian chưa gắn với chủ thể là cái tôi cá nhân cá thể, “điệu nói” của nó mới chỉ có được yếu tố là “cấu trúc lời nói” trong giao tiếp đời sống, gần với khẩu ngữ. Nhưng đó là yếu tố khá căn bản của hình thức câu thơ. Nguyễn Bính đã đưa vào câu lục bát dân gian hơi thở của thời đại Thơ Mới. Đó là, mang vào nó “yếu tố cá nhân”. Cụ thể, cùng với những khía cạnh như cảm xúc trở thành đối tượng mô tả, câu lục bát Nguyễn Bính đã được gia tăng những yếu tố lời nói, ngữ điệu, giọng điệu cá nhân. Có thể thấy Nguyễn Bính đã đưa giọng điệu thở than từ bi kịch lỡ dở của hồn mình vào lục bát, đưa cả điệu đùa ghẹo đa đoan vào lục bát. Cho nên, dưới ngòi bút của thi sĩ, lục bát đã mang cái hồn của Nguyễn Bính. Cơ sở nào trong lục bát có thể làm nội ứng cho điệu than Nguyễn Bính có thể nhập vào thể loại ấy nhuần nhuyễn đến vậy? Cặp lục bát, xét đơn thuần về nhạc tính, tự nó đã là một khúc thức chặt chẽ. Cụ thể là một tổ hợp nghiêng hẳn về thanh bằng [7], nó thuận hơn đối với việc diễn tả những trạng thái tâm tình ít gai góc, ít đột biến, thất thường. Và hết sức sở trường đối với những khúc ngâm, khúc tự tình, những lời than thở lâm li và những lời giao duyên ong bướm tình tứ. Một thi sĩ như Nguyễn Bính dường như có khả năng tư duy bằng lục bát. Lục bát tương hợp với những bước tư duy của một người thích trầm mình vào những mặc cảm tủi sầu, tương hợp với điệu hồn ưa than thở (Hồn tôi là cả một lời van). Nói một cách khác, điệu than đã tìm thấy trong thể loại lục bát cái tiết điệu vàng, dường như sinh ra để dành cho nó. Nên, hình dung theo cách của Hồ Xuân Hương, thì điệu than và lục bát đã phải duyên phải kiếp với nhau nên thắm lại liền: “Hai tay ôm lá vào lòng / Than ôi! chiếc lá cuối cùng là đây”, “Ngày qua ngày lại qua ngày / Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”, “Cách mấy mươi con sông sâu / Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh / Cũng là thôi cũng là đành / Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao”... Tất cả nhuần nhuyễn đến mức, Nguyễn Bính làm thơ như nói. Xuất khẩu thành thơ. Hễ cất lời là mây trôi nước chảy. Tự nhiên như nói thường, nói bông lơn, thậm chí nói trạng. ấy thế mà thành lục bát hay: “Dừng chân qua cửa nhà nàng / Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau”, “Cành dâu cao, lá dâu cao / Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em”, “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông / Một người chín nhớ mười mong một người”, “Ai làm cả gió đắt cau / Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non”, “Hội làng mở giữa mùa thu / Giời cao gió cả giăng như ban ngày”, “Đêm qua mới thật là đêm / Ai đem giăng sáng giãi lên vườn chè”. “Thấy tình duyên của đôi ta / Đến đây là... đến đây là... là thôi”...

*

Những ai am tường lục bát đều thấy lục bát dễ làm mà khó hay. Lúc nào nó cũng chênh chao trên một sợi chỉ mỏng manh giữa một bên là thơ bên kia là vè. Lục bát điệu ngâm cũng thế, mà lục bát điệu nói càng thế. Thực mà nói, do đúc chữ, nén chữ, coi trọng ý, tứ, lấy uyên súc làm đầu nên lục bát điệu ngâm có thể có nguy cơ chật chội, nặng nề, thiếu tự nhiên, nhưng ít có nguy cơ thành vè. Trong khi đó, lục bát điệu nói lại coi trọng giọng nói, lời nói, hơi thở xúc cảm, lấy tính tự nhiên làm trọng, nên thường giãn chữ, nới chữ. Do vậy, trở thành vè là một nguy cơ rất cao. Bản lĩnh của người viết lục bát chính là sự vững vàng ngay trong từng cái nhón chân trên sợi dây mỏng manh đó. Đọc Nguyễn Bính, người sành lục bát nào cũng phải ngả mũ thán phục trước những thành công tuyệt diệu của thi sĩ. Có lúc, tôi đã nghĩ, Nguyễn Bính giống như một nghệ sĩ xiếc tinh xảo của bộ môn đi trên dây, khi tạo ra những câu lục bát dễ như không mà thực khó vô ngần: “Cái gì như thể nhớ mong / Nhớ nàng, không, quyết là không nhớ nàng”, “Một nghìn năm, một vạn năm / Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ”, “Hồn anh là hoa cỏ may / Một chiều cả gió bám đầy áo em”, “Láng giềng đã đỏ đèn đâu / Chờ em chừng giập miếng giầu em sang”... Nhưng có lẽ không hẳn. Sâu xa hơn chuyện nghề nghiệp, siêu hình hơn chuyện bản lĩnh, là bản năng. Nguyễn Bính có một bản năng lục bát. Thơ lục bát Nguyễn Bính là sự cất lời của một bản năng lục bát vô tận. Không thế, làm sao có thể có được những câu lục bát cứ như không mà lại ma quái đến vậy: “Anh đi đó, anh về đâu / Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”, “Chừ đây bên nớ bên tê / Sương thu xuống gió thu về bồng bênh”... Nguyễn Huy Thiệp, khi đọc lục bát đã có một sự phân chia là lạ: lục bát “trí năng” và lục bát “ngộ năng” [8]. Loại thứ nhất có thể hiểu nôm na là loại “có thể” - người chịu khó trau dồi nghiệp lục bát vẫn có cơ một ngày nào sẽ đạt tới. Loại thứ hai là “không thể” - không thể bằng tinh thông nghề nghiệp mà đạt tới được, nó là tặng vật của trời ban cho một số ít nào đó, và cũng vào những khoảnh khắc xuất thần hiếm hoi nào thôi. Loại thứ nhất của người, loại thứ hai của trời. Và nhà văn này đã xếp Nguyễn Bính vào loại thứ hai. Tôi nghĩ là xác đáng.

Tuy nhiên, nói một thi sĩ có bản năng thi ca mạnh mẽ là đề cao, nhưng chỉ “ăn nhờ” vào bản năng không thôi thì lại là hạn chế. Tôi ngờ rằng Nguyễn Bính đã có những kiểu cách riêng để hoàn thiện câu lục bát đậm cá tính của mình. Nhìn sâu vào sở trường của từng điệu, có thể thấy lục bát điệu ngâm vẫn nệ ý hơn, vì thế, ý thường lanh chanh với nhạc trong việc dẫn dắt hơi thơ, triển khai câu thơ. Còn lục bát điệu nói lại chuyên chú ở hơi thơ, nên ý luôn nhường quyền dẫn dắt cho nhạc, tiết điệu lục bát thường thanh thoát tự nhiên, gần với tiết điệu sinh động trong dòng ngữ lưu của khẩu ngữ giao tiếp. Nắm được “tính nết” này thì làm chủ được lục bát điệu nói. Nguyễn Bính đã đánh thức dậy những tiềm năng vô song của điệu nói ấy. Lối ngắt nhịp cho thật gần với tiết điệu của lời nói thường: “Cái gì như thể nhớ mong // Nhớ nàng / không / quyết là không/ nhớ nàng”. Cái nhịp 2/1/3/2 ở câu bát này là tiết nhịp của khẩu ngữ, thể hiện tâm lí đầy mâu thuẫn của chủ thể. Nó bật lên sao lại ăn nhập đến vậy giữa tiết nhịp của chuỗi lời nói và tiết điệu của chuỗi lời thơ. Lối ngắt nhịp quyện chặt với lối trùng điệp hết sức táo bạo, đến ngỡ như đùa bỡn với ngôn ngữ, thế mà lại tự nhiên đến mức “quá quắt”, khiến cho câu lục bát có cái hay đến là nghịch lí: quen đến mức lạ lùng, giản đơn đến mức... cầu kì: “Anh đi đó, anh về đâu? / Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...” [9]. Lối chơi chữ tưởng rắc rối điệu đàng mà thực ra lại tự nhiên; nhịp thơ đầy lấp lửng, lúng liếng, đong đưa đã góp phần tạo ra hình tượng một khuê phụ lòng đầy xáo động, xao xuyến: “Buồng hương bóng bóng mình mình / Gió hiu hiu hắt qua mành mành hoa”. Lối dùng tiểu đối pha trộn với chơi chữ, lối dùng lấp láy, lối ngắt những nhịp tràn lướt khiến cho điệu lục bát tạo ra những hình động ngỡ cầu kì mà vẫn thanh nhã, trôi thoát rất ngon lành: “Đèo cao cho suối ngập ngừng / Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều”... ở thế hệ sau, người đi tiếp nẻo đường lục bát này với nhiều thành quả là Bùi Giáng, Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn..., họ lại mang hơi thở của thời đại mình, thế hệ mình vào lục bát. Khiến cho lục bát điệu nói vẫn luôn là một cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ thơ Việt Nam nhằm gìn giữ và làm mới một lối thơ đã trở thành hương hoả của giống nòi, để lục bát vẫn mãi là một thể loại thơ giàu sinh lực [10].

7. Lời quê, lời Việt

Lời thơ Nguyễn Bính là lời Việt trong vẻ đẹp chân quê.

Khép lại kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du viết một câu mà nó đã được truyền tụng bởi nhiều khía cạnh khác nhau:“Lời quê chắp nhặt dông dài / Mua vui cũng được một vài trống canh”. Nhưng có lẽ đó chỉ là sự khiêm nhường của thiên tài thuộc văn học bác học. Trong Truyện Kiều, vẻ đẹp của tiếng Việt không phải là lời quê. Có chăng, là lời quê đã được tinh luyện theo một thứ công nghệ bác học nào đó. Có lẽ chỉ ở Nguyễn Bính, mới có thứ lời quê còn nguyên hương đồng gió nội của nó.

Tạo ra cái ngôn ngữ được gọi là lời quê, không chỉ có vai trò của lời, với nghĩa là từ vựng. Lời quê còn phải được dùng theo lề lối quê nữa thì nó mới thực là chân quê, mới dậy lên cái hồn quê. Một bình diện lớn tạo nên cái lề lối ấy hẳn phải là điệu nói. Hãy lấy một so sánh. Cũng một hình ảnh vầng trăng xẻ đôi biểu hiện cho sự chia lìa, gắn với điệu ngâm, đầy những trau chuốt, đúc chữ nén ý, lẫn vào ngữ cảnh bàng bạc từ Hán Việt, nó đã hoàn toàn mất đi hương vị quê mùa: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”. Nhưng cũng vầng trăng ấy, nằm trong cấu trúc của lời nói gần với khẩu ngữ - một nét khá chủ đạo của điệu nói, và với lối ví von sánh đôi sánh cặp thuộc lề lối quê, mà ở câu ca này hương đồng gió nội vẫn vẹn nguyên: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Đường trần ai rẽ ngược xuôi hỡi chàng?”. Tôi cho rằng, nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt mà bỏ qua lề lối quê của việc dùng ngôn ngữ, tựa như một thứ “ngữ pháp quê”, thì chắc chắn đã bỏ sót một vẻ đẹp thuộc về bản sắc của tiếng Việt. Tiếc rằng, chưa có một công trình ngôn ngữ học nào quan tâm thực sự đến vấn đề này.

*

Cắm rễ rất sâu vào ca dao, Nguyễn Bính không chỉ giàu lời quê, mà còn rất nhuyễn lề lối quê nữa. Người ta đã khảo ngôn ngữ Nguyễn Bính và thấy ra chất quê ở nhiều mặt. Lối đo đếm không gian bằng thước đo cụ tượng đến... siêu hình: Thôn Đoài cách có một thôi đê. Trong thước đo đặc biệt ấy, ta thấy cái tĩnh và cái động quyện vào nhau. “Một thôi đê” bao gồm cả “một quãng đê” (tĩnh) nối thôn Đoài với thôn Đông, lại gồm cả “một quãng đi”, tức là nhịp di chuyển gắn với tốc độ bước của con người (động) dọc theo lối đê nữa. Vậy là, do sự hoà quyện ấy mà, trong cách đo kia vừa có dùng không gian để ướm vào khoảng cách không gian, vừa dùng cả thời gian để áng chừng không gian nữa. Chỉ có Nguyễn Bính dùng loại thước đo này. Đo đếm thời gian cũng theo lề lối quê: “Xóm giềng đã đỏ đèn đâu / Chờ em chừng giập miếng giầu em sang”. Đơn vị tính là quãng thời gian đủ để ăn (hoặc giã) giập một miếng giầu. Nghĩa là, thời gian được tính bằng loại công việc quen thuộc với tất cả những người quê. Vậy là trong mỗi người quê đều có chung một thứ đồng hồ qui ước. Hoặc phép tính thời gian bằng thứ “đồng hồ cây cỏ”: “Ngày qua ngày lại qua ngày / Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Lối đong đếm những cái hoàn toàn ảo như lòng sầu nhớ bằng những đơn vị độ dài, đơn vị dung tích hoàn toàn thực đầy tính cụ tượng và quen thuộc của người quê: “Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ / Em thử quay xem được mấy vòng / Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ / Em thử lào xem được mấy thưng”, “Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày”... Lối vòng vèo lấp lửng: “Em nghe họ nói mong manh / Hình như họ biết chúng mình... với nhau”. Lối ví von cụ tượng đầy bóng gió mà thâm thuý vô chừng: “Ai làm cả gió đắt cau / Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non”, “Tơ cô óng chuốt mịn màng / Sang xin một ít cho đàn có dây”, “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông / Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”... Vẻ đẹp của tiếng Việt trong lời quê là thế, nó bình dị đến nôm na, nhưng nó cũng trong sáng, sâu xa đến kinh ngạc. Nó chân mộc ngỡ thô sơ mà lại lung linh giàu thi vị. Nắm được cái nghịch lí đó, mới có thể nắm được cái hồn của lời quê. Hãy đọc một đoạn thơ này xem, tiếng Việt trong lời quê của Nguyễn Bính thực đã đến độ trong vắt: “Từ ngày cô đi lấy chồng / Gớm sao có một quãng đồng mà xa / Bờ rào cây bưởi không hoa / Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo / Lợn không nuôi, đặc ao bèo / Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn / Giếng thơi mưa ngập nước tràn / Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”. Mọi chữ ở đây đều là lời quê, đều là những tiếng thuần nôm, thuần quê. Lối dùng cũng là lề lối chân quê, tất tật đều là hương đồng gió nội. Từ cái cách biểu cảm (Gớm sao...), đến lối dùng các hệ thống ngôn từ đối lập để cùng tạo ra một không khí cho khung cảnh, nhất nhất đều rất quen thuộc, rất quê, nghĩa là rất giản đơn, mộc mạc, nhưng mà chữ nào cũng có linh hồn, tất cả lại chứa được cái linh hồn của cảnh. Để gợi ra sự trống vắng của cảnh, nỗi trống không của lòng, Nguyễn Bính thường hay dùng cái có gợi cái không, cái thừa gợi cái thiếu, cái đầy gợi cái rỗng, cái còn gợi cái mất. Ví như: “Em ở mình đây nhà trống trải / Giăng vàng đầy ngõ gió mênh mông”, hay “Giăng đầy ngõ gió đầy thôn / Anh về quê cũ có buồn không anh?”... Nhưng ở đoạn thơ trên, tất cả dường như tụ cả vào, đậm đặc, ấn tượng đến kì lạ. Người xưa nói: vắng con người thì có con tạo. Không biết Nguyễn Bính có hấp thu điều ấy không khi viết đoạn thơ ấy, mà thi sĩ đã gợi cái vắng mặt của con người, bằng những gì có mặt của con tạo. Người đi rồi làm trống hoang cả cảnh, cảnh hoang hoá đã làm hoang liêu cô quạnh cả chốn này. Đường thì xa, nhà thì vắng, quạnh nhất là vắng teo. Những từ mang sắc thái phủ định chỉ cái vắng, cái không: không hoa, không nuôi, chẳng buồn leo... sóng đôi với hệ thống những từ chỉ cái có, cái đầy: đặc ao bèo, mưa ngập, nước tràn... nhất là câu “Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều” đã làm cho không gian này đầy cả một nỗi trống không. Cái này càng đầy, cái kia càng trống. Một người ra đi đã làm côi cút cả cảnh vật, đơn côi khắp cả không gian lẫn thời gian. Những lời nôm na mà đầy ắp cảm xúc của chủ thể. Đến nỗi sau bao nhiêu năm người đọc vẫn chưa hết tê tái trước nỗi trống không dâng lên từ những lời quê mộc mạc đó.

Nhưng nói đến lời quê của Nguyễn Bính phải nói đến tài dùng thành ngữ và tạo từ theo lối thành ngữ. Trong một vài tài liệu nghiên cứu văn học dân gian, thành ngữ đã từng được xếp vào ô: “lời ăn tiếng nói của dân gian”. Tôi không bàn ở đây tên gọi của khái niệm cũng như tính lôgic của nó trong hệ thống khái niệm kia, mà chỉ muốn khẳng định rằng: thành ngữ thuộc về cái kho lời quê. Dùng thành ngữ có thể khiến lời thơ nặng tính ước lệ dân gian, lời dễ bị mòn. Nhưng thành ngữ khi được dùng nhuần nhuyễn, bao giờ nó cũng làm cho lời thơ trở nên mềm mại, thuần thục, thuận chèo mát mái, người nghe rất dễ thông khi tiếp nhận. Bởi thành ngữ không chỉ là một ngữ liệu bình thường. Trái lại nó là ngữ liệu đặc biệt. Trong đó kết tinh rất đậm nét mĩ cảm, mĩ học của người quê. Khi được dùng, nó có sự cộng cảm, mau chóng truyền lan những tín hiệu thông tin và thẩm mĩ theo những kênh quen thuộc trong tâm thức dân ta. Người đọc nắm bắt lời thơ trong thành ngữ bằng con người văn hoá truyền thống ăn sâu như một thứ gien văn hoá sẵn bao đời trong cõi sâu kín của hồn mình vậy. Chỉ nói riêng thành ngữ số từ, có thể thấy lời thơ Nguyễn Bính chân quê đến nhường nào. Bài Lỡ bước sang ngang chẳng hạn, hẳn là nó đã không đi sâu được vào lòng người quê, người Việt đến thế, nếu câu chuyện lâm li của người chị lỡ dở ấy không cậy nhờ được vào vốn thành ngữ số từ nhuần nhuyễn đến “dễ sợ” của thi sĩ: “Mẹ già một nắng hai sương / Chị đi một bước trăm đường xót xa... Vui cùng chị một vài giây cuối cùng... Một vai gánh vác giang san / Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương... Cách mấy mươi con sông sâu / Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh... Tuổi son nhạt phấn phai đào / Đầy thuyền hận có biết bao nhiêu người... Một đi bảy nổi ba chìm / Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần / Dù em thương chị mười phần / Cũng không ngăn nổi một lần chị đi... Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ... Một lầm hai lỡ keo sơn... Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm”, v.v...

Người nghệ sĩ ngôn từ chân chính nào cũng muốn làm giàu ngôn ngữ của mình bằng việc nắm cho được cái thần, cái hồn của tiếng mẹ đẻ, nắm cho được cái phép tinh luyện ngôn từ của cha ông. Nhưng điều này thật khó. Có người nỗ lực cả đời vẫn chưa có được bao lăm. Nhà văn Tô Hoài có lần than rằng, nhiều nhà văn không chú trọng luyện chữ nên không có chữ. Văn của họ có ý mà không có chữ. Trong các nhà văn hiện đại có lẽ chỉ Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Thi, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa... là có chú trọng luyện chữ theo lề lối quê một cách rõ rệt và có thành tựu nhất. Ở lối đi này, hẳn Nguyễn Bính luôn là một tấm gương lớn. Nhờ học được lời quê mà thơ Nguyễn Bính mới mang được cái hồn quê trong mỗi câu mỗi chữ, mới lưu được cái hồn quê trong vẻ đẹp của tiếng Việt chúng ta.


Núi Bò, 1991 - Văn chỉ, 2003
Chu Văn Sơn

[1] Trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941, tác giả có phê phán những “nhà thông thái thời nay” khi họ xem thường thơ Nguyễn Bính, rồi viết: “Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà ta không thể hiểu được bằng lý trí, một điều quí vô ngần: hồn xưa của đất nước”. (Tài liệu đã dẫn, tr.344)
[2] Sau in trong Tạp chí Văn học, tháng 11 - 1994
[3] Đỗ Bình Trị, Văn học 10, Ban KHXH, Nxb Giáo dục, 1993, tr.123.
[4] Hoài Thanh, “Từ thơ Đường đến Ca dao”, Báo Văn nghệ, 26-4-974.
[5] Tô Hoài, Lời giới thiệu, Tuyển tập Nguyễn Bính (Tài liệu đã dẫn, tr.20)
[6]Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, trong bài “Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam”- Sách Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca, Nxb Giáo dục, 1993, cho rằng: “Thơ mới đã căn bản cải tạo lại thơ trữ tình tiếng Việt từ câu thơ “điệu ngâm” sang câu thơ “điệu nói”. (tr.165).
[7] Nếu nhìn ở dạng chuẩn mực, thì một cặp lục bát khi phân bố tiết tấu theo nhịp phổ biến là 2/2/2 - 2/2/2/2 thì sẽ có sự hoà phối tiết tấu bằng trắc là: bằng / trắc / bằng - bằng / trắc / bằng / bằng. Tỷ lệ giữa bằng trắc là 5/2. Rõ ràng trong lục bát, thanh bằng hoàn toàn lấn át.
[8] Cách gọi của Nguyễn Huy Thiệp có vẻ mù mờ, nhưng về mặt ý tứ có thẻ hiểu được. Song, vận dụng nó để chỉ ra câu nào “trí năng”, câu nào “ngộ năng” thì lại không dễ gì thuyết phục.
[9] Một so sánh nhỏ với câu lục bát trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (thuộc điệu ngâm cổ điển): “Buồn trông cửa bể chiều hôm / Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”, có thể thấy thêm vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn Bính. Tôi không bàn chuyện hơn kém, mà chỉ phân biệt những nét riêng của mỗi người. Cả hai vị đều hướng tới một cảnh khá gần gũi nhau là hình ảnh con thuyền ngoài xa. Câu thơ Nguyễn Du trọng hình và ý nên đã tái hiện lại khá đầy đủ một bức tranh. Chữ “buồn trông” gợi ra hình ảnh đôi mắt buồn trông vời trời nước của Thuý Kiều (bấy giờ đang ngồi trước lầu Ngưng Bích). Chữ “cửa bể” gợi ra một không gian, chữ “chiều hôm” gợi ra một thời gian. Cả hai hợp lại thành một khung cảnh thật trống trải rợn ngợp. Hình ảnh con thuyền hiện lên trực tiếp qua chữ “thuyền ai”, rồi được làm rõ hình hài hơn bằng hình ảnh cánh buồm với những sắc thái mô tả trực tiếp “thấp thoáng”, “xa xa”. Cả cặp lục bát chữ nào cũng là “chữ đúc” giàu nghĩa, không có sự lăp lại của ngôn từ, nó uyên súc. Cảnh vật được vẽ theo lối trực tiếp bằng chất liệu của hình, của ý. Nó chứa đựng nỗi hoang mang sâu thẳm của Thuý Kiều trước cái mênh mông vô định của cuộc đời. Giờ đây, nàng hoàn toàn trơ trọi trước biển đời đầy sóng gió, chẳng tìm đâu trong thế giới bất định kia một bám víu nào, một điểm tựa nào.
Còn Nguyễn Bính lại tạo hình gián tiếp bằng giọng và lời. Giọng điệu được hiện ra rất rõ qua ngữ điệu và nhịp điệu đặc biệt của hai câu này. Cả hai câu có khuôn nhịp 3/3 - 3/3/ 2. Như vậy, bốn nhịp 3 nối tiếp nhau tạo ra một cảm giác chuyển động. Điều này càng rõ hơn nhờ lối trùng điệp: sự lặp lại của các vế câu. Trong câu lục: “Anh đi đó, anh về đâu?”, vế sau là sự lặp lại nguyên vẹn về số lượng (3/3), chủ từ (anh), chỉ khác về hướng chuyển động (đi/về), về từ để trỏ (đó/ đâu), và khác về ngữ điệu: vế trước là xác định việc anh đi là sự thực, đã nhổ neo rồi; vế sau: băn khoăn - nhổ neo rồi đó nhưng sẽ về đâu? “đi” thì đã rõ, còn “về” thì mông lung (ở một bài khác Nguyễn Bính có câu: “Ta đi nhưng biết về đâu chứ / Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi?”. Đằng sau câu hỏi kia là cả một nỗi ái ngại của kẻ lữ thứ thấy đời vô định, thấy mình bơ vơ). Nhưng đáng nói hơn là hai vế ấy hô ứng nhau, tiếp nối nhau tạo ra một chuyển động của con thuyền. Như vậy nhịp thơ góp phần gợi ra một hình động, một chuyển động. Câu bát thần tình hơn. Cả câu viết theo lối lặp, lối điệp, mà vừa có phần điệp nguyên vẹn, vừa có phần điệp giảm bớt: “Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”.
Thủ pháp tạo hình và chuyển động của Nguyễn Du là dùng các tính từ mô tả trực tiếp, hoàn toàn thuộc về thị giác, cụ thể là những từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”. Thủ pháp của Nguyễn Bính chủ yếu dùng nhịp lục bát và lối điệp để tạo ra chuyển động của con thuyền đang ngày một xa dần. Từ câu trên đến câu dưới, với bốn nhịp 3 kế tiếp, con thuyền từ chỗ rời bến đến chỗ càng lúc càng xa dần, xa dần. Nguyễn Bính cũng gợi ra được ánh mắt của kẻ trông vời nhưng không phải bằng hình ảnh trực tiếp “buồn trông”, mà gián tiếp qua ngữ điệu hỏi. Thủ pháp của Nguyễn Bính là phối hợp ngắt nhịp (3/3 - 3/3/2) với lối điệp vế câu, và lối làm mất màu: ban đầu còn thấy màu của cánh buồm nâu, cuối cùng chỉ còn nhận ra đó là cánh buồm thôi, mà không còn nhìn rõ màu sắc của nó nữa. ấy là lúc con thuyền đã đi xa hút tầm mắt. Con thuyền thì lênh đênh vô định, người đoái trông thì ái ngại lo âu.
Tóm lại, giọng điệu đã được Nguyễn Bính sử dụng như phương tiện chủ yếu để triển khai và tạo hình trong câu thơ của mình. Vì thế, tạo cảm xúc bằng giọng là đích chủ đạo của việc sáng tạo lời thơ. Câu thơ hoàn toàn như một lời nói thường, đậm chất khẩu ngữ, mà độ hàm súc và tài hoa không hề thua kém các bậc tiền nhân, nếu không nói là còn có những điẻm độc đáo chưa thấy ở người đi trước.
[10] Tôi đã có dịp nói về thơ lục bát của những thế hệ sau, nhất là của Nguyễn Duy, xin xem bài “Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân”, Tạp chí Nhà văn số 2-2003.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vần điệu trong thơ lục bát

Ở các thể loại thơ văn xuôi, thơ tự do, người viết có thể bỏ vần để lấy ý, bỏ âm điệu trắc, bằng để tạo ra những âm điệu mới mẻ khác cho phù hợp với bài thơ. Còn ở thơ lục bát người viết phải tôn trọng những niêm luật riêng. Vần điệu trong thơ tự do, người viết thường chủ động buông bắt biến hoá, dài ngắn tuỳ theo cách diễn đạt của riêng mình, vần điệu trong thơ lục bát nếu khác sẽ trở nên thô kệch, vụng về.

Nhắc vần điệu trong thơ lục bát, xin được dẫn chứng một bài thơ của cố thi sĩ Nguyễn Bính:

Rừng chiều

Lữ hành bắt gặp quán cơm
Bày ong bắt gặp mùi thơm hoa rừng
Đèo cao cho suối ngập ngừng
Nắng thoai thoải nắng, chiều lưng lửng chiều...
Trăng non như một cánh diều
Trẻ con phất dối thả liều lên mây
Chim nào kêu mỏi ngàn cây
Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe
Đồi sim dan díu nương chè
Trắng phau khói núi, xanh lè áo ai...
Bài thơ trên Nguyễn Bính viết năm 1938 ở Thái Nguyên. Một bài thơ toàn bích trong cấu trúc và cách diễn đạt. Đặc biệt vần điệu trong thơ vừa tự nhiên vừa điêu luyện. Đọc đôi lần đã nhớ đã thuộc. Thuộc rồi, nhiều lúc nhớ đến, nhắc đến vẫn thấy ngân nga, rung động:

Đèo cao cho suối ngập ngừng
Nắng thoai thoải nắng, chiều lưng lửng chiều...
Trăng non như một cánh diều
Trẻ con phất dối thả liều lên mây
Những chữ ngừng, lưng hoặc chiều, diều, liều gieo vần thật chuẩn mực mà không hề gò bó khiên cưỡng. Câu thơ: “Nắng thoai thoải nắng, chiều lưng lửng chiều” cách diễn đạt sáng tạo, tài tình và rất Nguyễn Bính. Bài thơ hay một cách giản dị, xuất thần. Hay đến nỗi không thể gọt giũa, thêm bớt. Hãy thử tưởng tượng xem, nếu câu thơ trên mà viết khác hoặc dịch ra tiếng nước ngoài, cái hay cái đẹp sẽ giảm đi đến mức nào.

Trải qua thời gian thơ lục bát có thể biến ảo trong phạm vi nhất định. Người làm thơ có thể ngắt nhịp, xuống dòng để diễn tả điều mình muốn nói một cách tự nhiên. Người làm thơ có thể gieo liền những âm bằng trong cả câu sáu hoặc câu tám... Nhưng đã viết lục bát thì dù phóng túng, ngang tàng đến mấy câu thơ cũng phải có... vần. Đọc một vài thơ lục bát, cứ nhìn vào cung cách gieo vần cũng đủ biết tay nghề cao hay thấp của tác giả. Thể loại thơ lục bát rất cũ càng, giống như một lối đi có sẵn, dễ mà hoá khó, khó mà hoá dễ - nó là nơi thử sức và thách thức cả những cây bút mới vào nghề và cả những cây bút cao niên, già dặn.


Nguyễn Đức Mậu
11.00
Ảnh đại diện

Nguyễn Bính hành phương Nam

Phần 1: Ta và nhà ngươi

Bài thơ Hành phương Nam của thi sĩ chân quê Nguyễn Bính không chỉ có một phong cách rất lạ so với những bài thơ khác của ông, mà còn ghi dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời nhà thơ.

“Nhà ngươi” là ai?

Nói bài thơ có phong cách lạ bởi người ta vốn quen với cái chất mộc mạc, mang phong vị ca dao trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn:

Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
hoặc
Hồn anh như hoa cỏ may
Một hôm cả gió bám đầy áo em...
Cho nên khi gặp cái chất hào sảng, khí phách trong Hành phương Nam thì người đọc cảm thấy bất ngờ, thú vị:
Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Đã mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến ngập trời hoa rượu nở
Riêng ta nhà ngươi buồn vậy thay...
Tôi thích nhất là những câu xưng hô “ta với nhà ngươi”:
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười...
...
Ngươi ơi, ngươi ơi hề ngươi ơi
...
Ngươi về bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi.
“Ta” thì đã hẳn là Nguyễn Bính, nhưng còn “nhà ngươi”?

Cách đây 15 năm, tôi có hỏi chị Hồng Cầu (con gái nhà thơ Nguyễn Bính): “Nhân vật được Nguyễn Bính gọi là “nhà ngươi” trong bài thơ Hành phương Nam là ai?” Chị trả lời: “Là ông Hoàng Tấn đấy!”

Vài bữa sau, nhà thơ Kiên Giang dẫn tôi đến thăm nhà văn Hoàng Tấn. Ông sống đơn chiếc cùng với cô con gái ruột trong một căn hộ nhỏ nằm trên lầu hai cư xá Thanh Đa (Bình Thạnh, TP. HCM). Nhà ông chật hẹp nhưng trông hệt như một... bảo tàng văn học. Những bài thơ của các thi hữu thân thiết, hoặc những bài báo (tranh ảnh) viết về họ, đều được ông cắt dán trang trọng kín những bức vách. Dạo đó, nhà thơ Kiên Giang đã qua ngưỡng “cổ lai hy”, Hoàng Tấn lớn tuổi hơn, độ ngoài tám mươi. Ấy vậy mà trí nhớ của cả hai lão thi nhân thật tuyệt vời. Gặp nhau họ chuyện vãn như... lân gặp pháo.

Hơn cả vợ và người tình

Nhà văn Hoàng Tấn và Nguyễn Bính thân nhau đến nỗi ông Hoàng Tấn “tự hào” rằng còn thân thiết hơn cả những người tình, những bà vợ của Nguyễn Bính. “Ồ, thế ra Nguyễn Bính đã xa tôi đúng 20 năm rồi ư? Một tia chớp thời gian. Hai thập niên vèo bay! Không, Nguyễn Bính vẫn còn đây, vẫn ở bên tôi ngày đêm tâm sự, cùng nhau xướng hoạ, ngâm vịnh, cùng nhau xẻ ngọt chia sầu. Trong phòng tôi, trên tường, di bút Nguyễn Bính còn đó. Những thư từ Nguyễn Bính viết cho tôi vẫn còn đây. Những bài thơ trong bản thảo của Nguyễn Bính tôi trân trọng giữ gìn cũng như gìn giữ những tấm ảnh của Bính chụp trong nhiều giai đoạn khác nhau. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mất Nguyễn Bính... Nếu tính đến nay (1986), tình bạn của chúng tôi kéo dài còn hai năm nữa là tròn nửa thế kỷ...” (trích Nguyễn Bính - một vì sao sáng - Hoàng Tấn, NXB Đồng Nai, 1999).

Nhà văn Hoàng Tấn kể, khoảng năm 1939 ông vào Sài Gòn thử thời vận bằng cách dấn thân vào “trường văn, trận bút”. Khi đã có công việc ổn định, tháng 8.1943 ông gửi thư về Bắc rủ Nguyễn Bính, Trúc Đường (anh ruột Nguyễn Bính) và Thâm Tâm vào Nam để chuẩn bị cho “bộ khung” tờ Hạnh phúc (bộ mới) do Võ Tuấn Khanh làm chủ nhiệm sắp ra đời. Khoảng một tháng sau thì Nguyễn Bính xuất hiện ở Sài Gòn lần thứ hai (lần đầu Nguyễn Bính vô Nam vào những năm cuối thập niên 30, thế kỷ trước), cùng đi với ông không phải là Trúc Đường, Thâm Tâm mà là Tô Hoài và Vũ Trọng Can.

Ở Sài Gòn, Hoàng Tấn cùng với hai người bạn thuê một căn nhà lợp ngói, nằm trong một vườn cây ăn trái ở khu vực chợ Nancy (Nguyễn Văn Cừ hiện nay). Họ đón Nguyễn Bính về ở chung. Nguyễn Bính rất thích ngôi nhà này và đặt tên là “Lan Chi Viên”.

Từ đó, Lan Chi Viên trở thành câu lạc bộ Tao đàn, thường xuyên là nơi họp mặt của một bộ phận thuộc giới trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời bấy giờ với những cái tên: Thiếu Sơn, Lê Tràng Kiều, Khổng Dương, Nam Châu, Thiện Minh, Xuân Miễn, Ngân Hà, Nguyễn Đức Hinh... Ngoài ra còn có một số thân hữu, sinh viên học sinh yêu mến thi tài của Nguyễn Bính vẫn thường lui tới. Hồi đó, hầu như dân Sài Gòn đều ăn cơm tiệm cho tiện, khỏi phải củi lửa nồi niêu, đỡ tốn thời gian để còn làm việc. Cho nên, mỗi chủ nhật ở Lan Chi Viên đều tổ chức nấu cơm gia đình, họp mặt bạn bè trong không khí thơ văn ấm cúng. Những buổi như thế, việc bếp núc đều do Nguyễn Bính đảm trách. Không chỉ sành sõi trong việc nấu nướng (chính xác là làm “mồi” nhậu), Nguyễn Bính còn rất am hiểu về cách pha trà, chọn rượu... Những bữa cơm gia đình như thế thường kéo dài bất kể thời gian, miễn sao tửu lượng vẫn còn, thi hứng vẫn dào dạt và... tiền trong túi chưa cạn!

Riêng với Hoàng Tấn, Nguyễn Bính “phóng bút” (chữ của Hoàng Tấn) một bài thơ tặng bạn:
Trải bao nhiêu núi sông rồi
Đến đây lại vẫn hai người chúng ta
Con đò thì nhớ sông xa
Con người hỏi nhớ quê nhà bao nhiêu?
Cùng thơ và lại cùng nghèo
Thương nhau được mãi nên chiều được nhau
Rối lên, ôi những mái đầu
Sáng lên vô hạn, ôi màu mắt xanh
Ở đây cát bụi kinh thành
Giàu sang một bước, công danh một giờ
Anh em mình, một dòng thơ
Lấy chi ngoi được lên bờ vinh quang
Giữ cho trọn tấm lòng vàng
Võng đào tán tía nghênh ngang mặc người”
(bài Trải bao nhiêu núi sông rồi)
“Hai ta lưu lạc phương Nam này”, dù nổi tiếng như cồn song giữa chốn phồn hoa đô hội “giàu sang một bước, công danh một giờ”, Nguyễn Bính vẫn ân cần dặn dò bạn “giữ cho trọn tấm lòng vàng”...

Phần 2: Giai thoại ở Sài Gòn

Phiêu bạt giữa chốn phồn hoa đô hội Sài Gòn mà cái nghèo luôn là bạn đồng hành, thế nên Nguyễn Bính lúc nào cũng cần tiền.

Tuy nhiên, không phải vì cần tiền mà đánh mất lòng tự trọng - Nguyễn Bính đã để lại trong lòng bạn bè nhiều giai thoại lý thú...

Chơi khăm trọc phú

Một lần chủ nhiệm tờ Dân báo thông qua Tế Xuyên (Léon Sanh) nhờ Nguyễn Bính làm một bài thơ để đăng trên số báo đặc biệt Xuân Giáp Thân. Bài thơ viết về một xóm nhỏ bên kia Cầu Kinh, nơi có khu nhà nghỉ nằm ven sông Sài Gòn của một “đại gia” họ Nguyễn (khu vực Thanh Đa ngày nay). Bài thơ của Nguyễn Bính mang tên Xóm Dừa:
Lối đỏ như son tới Xóm Dừa
Ngang cầu điểm điểm giọt mưa thưa
Xuân sang xao xuyến lòng tôi quá
Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa?
Còn đây là khổ thơ cuối:
Ở lại kinh thành với bút nghiên
Đêm đêm quán trọ thức thi đèn
Làm thơ bán lẻ cho thiên hạ
Thiên hạ đem thơ đọ với tiền.
Ông chủ nhiệm tờ Dân Báo không thích hai câu cuối, nên nói với Tế Xuyên nhờ thi sĩ sửa lại. Nể bạn, Nguyễn Bính thay bằng:
Xót xa một sớm soi gương cũ
Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền!
Hai câu này cũng chưa làm ông chủ báo hài lòng, đề nghị sửa thêm lần nữa. Nguyễn Bính khước từ. Báo sắp lên khuôn, bài thơ đã được “rao” (quảng cáo) trước, thành thử Tế Xuyên phải năm lần bảy lượt làm thuyết khách. Cuối cùng thì bài thơ cũng được đăng báo, nằm ở vị trí trang trọng với hai câu cuối như sau:
Xót xa một sớm xoè năm ngón
Thấy chết lòng tay vệt trái tim.
Hai ngày sau khi báo phát hành, Nguyễn Bính đến toà soạn đòi nhuận bút (các báo hồi đó chưa có chế độ nhuận bút, chỉ có những cây bút nổi tiếng thì chủ báo mới bất đắc dĩ chi cho một khoản tiền khiêm tốn - NV). Ông chủ tờ Dân báo bảo thủ quỹ trao cho Nguyễn Bính 10 đồng. Nguyễn Bính chê ít, không nhận.

Ông chủ giải thích: “Với các văn sĩ nổi tiếng, bài nào tôi trả cao nhất cũng chỉ tới 5 đồng. Riêng với ông, tôi có cảm tình đặc biệt...” Ông chủ báo chưa dứt lời thì Nguyễn Bính đã ném xấp tiền tung toé dưới đất rồi ung dung ra về trước sự kinh ngạc của nhiều người có mặt... Chiều hôm đó, Tế Xuyên tìm đến Lan Chi Viên, ân cần xin lỗi và trao cho Nguyễn Bính 50 đồng. Một trường hợp hy hữu trong làng báo Sài Gòn thời bấy giờ.

Sau khi báo đăng bài thơ Xóm Dừa thì Nguyễn Bính rất được “đại gia” họ Nguyễn biệt đãi và thường mời thi sĩ đến khu nhà nghỉ ở Thanh Đa chơi. Trong một lần đến chơi như thế, Nguyễn Bính được chủ nhân biếu 500 đồng (giá vàng thời điểm này khoảng 60 đồng/lượng - NV).

Sau đó ít lâu, cô em họ của “đại gia” này phát biểu sao đó làm xôn xao làng báo và thương tổn đến danh dự nhà thơ. Nguyễn Bính nổi sung, tương ngay lên mặt báo:
Trọc phú ti toe bàn sách vở
Điếm già tấp tểnh nói văn chương
Chúng coi đồng bạc to hơn núi
Lại học đòi theo thói Mạnh Thường.
Anh em “Nguyễn đại gia” cay hơn ăn ớt.

Chưa hết, Nguyễn Bính còn thuê một lúc 3 chiếc xích lô: chiếc thứ nhất chở cái vali, chiếc thứ hai chở chồng sách báo và... đôi giày, còn Nguyễn Bính thì chễm chệ “ngự” trên chiếc thứ ba - cứ vòng qua, vòng lại hàng chục lần trước tư dinh của “Nguyễn đại gia” nằm trên đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng). Dân Sài Gòn đứng coi chật đường và cho đó là “một... kỳ quan!” (chữ của nhà văn Hoàng Tấn).

Tập thơ trị giá 5 lượng vàng

Nhà văn Hoàng Tấn kể: “Một hôm Nguyễn Bính hỏi tôi: Làm thế nào có tiền mà không... bẩn. Tôi bày kế cho Bính, Bính khen hay và bắt tay vào thực hiện. Vậy là Nguyễn Bính mua mực tàu, giấy hồng đào suốt ngày “rị mọ” nắn nót (chữ Nguyễn Bính rất đẹp). Năm hôm sau, người ta đọc được mẩu quảng cáo trên báo: “LỠ BƯỚC SANG NGANG - Tập thơ viết tay của thi sĩ Nguyễn Bính, để trong tủ kính lớn của hiệu sách Nguyễn Khánh Đàm ở đường Sabourain. Tập sách vô giá này, chúng tôi sẽ dành tặng cho người nào trả giá cao nhất. Bạn yêu thơ nào đoạt được cuốn sách này sẽ được tác giả viết lời đề tặng ở đầu cuốn sách với chữ ký và triện son”...

Cuối cùng, cuốn thơ viết tay thuộc về một nhà thầu khoán mê thơ tên Trần Sỹ Nghi với giá... 300 đồng (tương đương 5 lượng vàng thời bấy giờ). Trần Sỹ Nghi còn đặt tiệc chiêu đãi tại tư gia trên đường Duranton (Sương Nguyệt Anh bây giờ) với hơn 50 tân khách chỉ để thi sĩ ghi lời tặng và ký tên vào sách (triện son đã đóng sẵn). Bữa tiệc kéo dài đến quá nửa đêm, giúp vui còn có các nữ nghệ sĩ lần lượt ngâm ba bài trong tập Lỡ bước sang ngang... Sau này, gia đình Trần Sỹ Nghi sang Pháp sinh sống, tài sản khánh kiệt nhưng vẫn giữ cuốn thơ chép tay ấy như vật gia bảo”.

Trong tác phẩm Giọt mật cho đời (NXB Văn hoá thông tin, 1994), tác giả Phạm Tường Hạnh kể rằng dạo đó trừ những tờ báo thân Pháp, được Pháp chi tiền thì tồn tại khá lâu, còn những tờ báo tư nhân đứng đắn “thọ” lắm cũng chỉ được dăm ba năm là đình bản.

Nổi tiếng như tờ Phụ nữ tân văn mà cũng chỉ sống được hơn 4 năm. “Vậy mà có hôm Lê Tràng Kiều hỏi tôi (Phạm Tường Hạnh - NV): “Cậu nghĩ thế nào khi có bạn đọc yêu thơ Nguyễn Bính đến nỗi đặt mua một lúc 20 năm báo?” Tôi cười nghĩ đất Sài Gòn này cũng không thiếu những kẻ lập dị, chơi ngông. Nhưng Lê Tràng Kiều nói tiếp: “Bọn mình nghĩ bà ta nhầm nên hỏi lại: Thưa bà, bà muốn mua 2 năm báo của chúng tôi? Người phụ nữ đó trả lời: Không, tôi đặt mua 20 năm để ủng hộ tờ báo tôi yêu thích. Mọi người trong toà soạn đều biết rằng đây là một độc giả đặc biệt yêu thích thơ Nguyễn Bính, cho nên ông chủ chỉ cho phép thu vào quỹ một năm báo, còn số tiền 19 năm báo kia bỏ vào phong bì cho người đưa tới nhà Nguyễn Bính”.

Khi Lê Tràng Kiều tiết lộ tên người phụ nữ “chịu chơi” ấy, Phạm Tường Hạnh mới biết đó chính là Loan - cô em bà con của mình, người đẹp phố Cầu Gỗ (Hà Nội), vợ của hoạ sĩ Nhan Chí. Chàng hoạ sĩ vốn quê vùng Xóm Thuốc (nay thuộc Gò Vấp, TP. HCM) ra Hà Nội học trường Mỹ thuật và ở trọ trong nhà cô Loan, một cô gái rất mê thơ Nguyễn Bính. Cô thuộc gần như tất cả những bài thơ của Nguyễn Bính và đọc chúng gần như suốt ngày. Rồi gia đình của Nhan Chí từ Sài Gòn ra Hà Nội xin cưới vợ cho con trai. Ngày Loan từ giã Hà Nội theo chồng vào Nam, cô đã làm cả nhà bật khóc khi vừa bước ra cửa bỗng quay lại, ôm chầm lấy mẹ nức nở:
Lần này con bước chân đi
Là con không hẹn lần về nữa đâu...
(Lỡ bước sang ngang)
Phần 3: “Từ gác Nam Phong đến thơ” Người xóm Rẫy

Trên bước đường giang hồ Nguyễn Bính đã đến tận Hà Tiên, mảnh đất thi ca vùng cực Nam với Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ ngày xưa, và sau đó là “cõi riêng” của cặp Đông Hồ - Mộng Tuyết.

Đối với một tâm hồn nhạy cảm, thích dịch chuyển, phiêu bạt như Nguyễn Bính thì việc “giẫm chân tại chỗ” - cho dù chỗ đó là Hà Nội hay Sài Gòn – mãi cũng “cuồng chân”. Cho nên khi nhận được thư của nhà thơ Đông Hồ từ Thạch Động Hà Tiên gửi lên, mời thi nhân làm một chuyến xuôi Nam tham quan Hà Tiên thập cảnh (tên một tập thơ ngâm vịnh của Mạc Thiên Tứ - NV), Nguyễn Bính mừng lắm. Các bạn thơ Hoàng Tấn, Lê Tràng Kiều gom góp lộ phí để chàng tức tốc lên đường.

Trong hồi ký Để nhớ Nguyễn Bính - những ngày ghé bến Hà Tiên, nữ sĩ Mộng Tuyết kể lại (lược ghi): “Vào một buổi chiều mùa hạ năm 1944, tôi đang ngồi may trong Yiễm Yiễm thương điếm ở chợ Hà Tiên thì có một người khách lạ xách valy bước vào, ngập ngừng hỏi: “Có phải chị Tuyết không? Bính đây!”… Từ đó, anh Đông Hồ đã nhường Nam Phong tiểu các cho thi sĩ để chàng làm thơ. Anh còn bắt tôi cắt may cho chàng nghệ sĩ “khăn gói gió đưa” một bộ bà ba từ cây lụa Hà Đông mới từ Hà Nội gửi vào. Bính thích lắm! Một hôm Bính lật bên trong lá đỉnh vạt trước khoe với tôi: “Đố chị, mấy chữ này nghĩa là gì?” Tôi cầm vạt áo thấy có bốn chữ Khả Thuỷ Sơn Nhân viết bằng chữ Hán, thêu chỉ son. Tôi đoán không ra, hỏi anh Đông Hồ mới hiểu là Bính chiết tự 2 chữ Hà Tiên (Khả Thuỷ là chữ Hà, Sơn Nhân là chữ Tiên). Bính còn khoe “Ngọc thêu cho chú Bính đấy!” (Ngọc là cô cháu gái của Mộng Tuyết - NV).

Mỗi ngày, sau khi ăn sáng tại nhà anh Đông Hồ, Bính lại theo tôi ra Yiễm Yiễm thương điếm để “trông hàng cho chị”, để “nhìn chị may áo” và để “đi gửi thư cho chị”. Mỗi khi tôi viết thư xong, Bính giành đi bỏ vào thùng thư. Chiều chiều, tôi thường đạp xe từ cửa tiệm về nhà riêng ở xóm Rẫy. Từ ngày có Bính, Bính thường đi theo.

Đưa tôi về xóm Rẫy xong, Bính lại trở về nhà anh Đông Hồ để ăn cơm tối (lúc này, Đông Hồ vẫn đang là anh rể của Mộng Tuyết. Vợ của Đông Hồ mất sớm, Mộng Tuyết phải thay chị chăm sóc hai đứa trẻ, con của Đông Hồ. Phải sau đó 10 năm, họ mới chính thức thành vợ chồng - NV). Xong, lại rủ Đông Hồ ngược vào xóm Rẫy. Hôm nào Đông Hồ bận thì Nguyễn Bính một mình vào xóm Rẫy. Nhà ở xóm này cứ chạng vạng tối là đã khép cửa. Dưới ngọn đèn dầu dừa, cô cháu gái tên Ngọc của tôi đọc Tam quốc chí cho má tôi nghe, Bính cũng thường ngồi nghe ké. Nhiều lần Bính đến trễ, cửa đã cài then, Bính ngồi ngoài thềm cho đến tận khuya mới về mà không dám gọi cửa. Bính nói: “Ngồi trong đêm khuya, nghe trộm tiếng Ngọc đọc sách, cách một lần cửa đóng kín, cũng có cái thú vị riêng”.

Lúc này, Bính tiết lộ với chúng tôi là sẽ khởi thảo một truyện dài bằng thơ lục bát “dài hơn cả truyện Kiều!” Ở tỉnh nhỏ, hầu như nhà ai cũng đốt đèn dầu dừa, dầu cá... riêng trên Nam Phong tiểu các thì Đông Hồ dành cho Nguyễn Bính những ngọn hồng lạp để đêm đêm hồn thơ phát tiết. Mỗi đêm Bính viết được 4-5 trang lục bát. Sáng ra, đọc cho chúng tôi nghe rồi cùng nhau bình luận. Tết Đoan Ngọ, thấy tôi nấu nước cây thạch xương bồ để tắm gội, Bính rất thích 3 chữ “thạch xương bồ” bèn quyết định đặt tên đó cho tác phẩm đang viết của mình. Nhưng tác phẩm Thạch xương bồ chưa dài bằng... nửa truyện Kiều thì máu giang hồ nổi lên, Bính quyết định rời Hà Tiên dù chúng tôi hết sức níu giữ...”

Những ngày ở Hà Tiên, Nguyễn Bính không hoàn thành Thạch xương bồ, nhưng bù lại, ông đã âm thầm viết được một tuyệt tác - đó là trường ca Người xóm Rẫy, dành tặng chị Mộng Tuyết và… em Ngọc! Bài thơ không biết được làm xong từ lúc nào (trong thời gian Nguyễn Bính ở Hà Tiên). Nhà văn Hoàng Tấn kể, về lại Sài Gòn, giữa Lan Chi Viên, Nguyễn Bính mua 3 tờ giấy hồng điều, dán lại, dài thậm thượt và cũng lại “rị mọ” chép bài thơ Hà Tiên - Người xóm Rẫy (độc vận) bằng mực tàu, bút lông:
Một mình làm khách gác Nam Phong
Giở Tam Quốc Chí đọc mê mải
Mơ xanh uống rượu luận anh hùng
Tóc bạc, ném nghiên tỏ khí khái
Mê gái, cửa thành giết bố nuôi
Thương người, đường hẻm thả giặc chạy...
Đó là những câu mở đầu của chương I (khá dài), toàn những điển tích trong truyện Tàu. Ly kỳ nhất là ở chương II, Nguyễn Bính tự thú mình đã yêu... Ngọc:
Cô cháu, Minh hương tuổi mười bảy
Mũi thẳng mi cong tóc mượt dài
Răng đều môi mọng ngực tròn mẩy
Gặp nhau chào nhau rồi quen nhau
Ngày một ngày hai thành luyến ái
Vườn xanh đốm nắng đổi dời luôn
Hai đứa trong vườn đùa ném trái
Dưới gốc ngửa mặt căng áo hoa
Trên cành trái sữa ném như vãi
Trái sữa không lăn vào áo hoa
Ngực tròn trái cứ ném trúng mãi
Vườn trăng cầm tay thương quá đi
Một ngày không gặp nhớ biết mấy
Thơ tôi nàng gối trên đầu giường
Đêm che ánh đèn đọc vụng mãi...
Tôi cười bảo chị: Gả cho tôi
Mộng Tuyết cười theo: Lấy thì lấy
Trao trâm tặng quạt ỡm ờ chi
Trai tài gái sắc vừa đôi đấy..
Rồi tôi khăn gói lại lên đường
Nàng ra bờ sông đứng khóc mãi
Tàu đi xa mấy dặm sông dài
Ngoảnh lại vẫn còn tay Ngọc vẫy
Người ở những mong ngày gặp nhau
Kẻ đi biết khó kỳ quay lại...
Đây chỉ là những đoạn trích, còn bài thơ thậm dài được tác giả treo giữa phòng khách, bên cạnh lư trầm luôn toả hương làm cho cả căn phòng luôn ngào ngạt khí thơ. Theo nhà văn Hoàng Tấn thì làm thơ theo thể độc vận mà lại là vận trắc (Rẫy) thì quả là công phu. Đoạn Bính và cô Ngọc chia tay, Hoàng Tấn đề nghị thêm vào hai câu:
Rặng liễu thương ai mà gầy mòn
Hàng cau nhớ ai mà vẫy vẫy.
Bính thích lắm, điền ngay vào nhưng cũng vẽ thêm một ngôi sao làm dấu và chú thích “thơ Hoàng Tấn” rất rạch ròi, sòng phẳng.

Phần 4: Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau

Đã hơn 60 năm nhưng những ấn tượng về Nguyễn Bính và buổi gặp gỡ đầu tiên ấy vẫn không phai trong trí nhớ của nhà thơ lão thành Kiên Giang.

Nhà thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà là một trong rất ít văn nghệ sĩ ở phía Nam có duyên gặp gỡ và cận kề với “nhà thơ chân quê” Nguyễn Bính trong một thời gian khá dài.

Lưu lạc về Rạch Giá

Số là vào khoảng năm 1946, cậu học trò Trương Khương Trinh đang học bậc trung học ở Rạch Giá (ông sinh năm 1929 tại Xẻo Đước, làng Đông Yên, huyện An Biên, do nạn cướp lộng hành nên phải tản cư về Rạch Giá). Một hôm có người bạn học tên Nguyễn Phi Long khoe: “Nhà thơ Nguyễn Bính đang ở xóm biển, sau đình Nguyễn Trung Trực”.

Vốn mê thơ văn, mà Nguyễn Bính lại là thần tượng của mình nên Trương Khương Trinh (sau đây xin gọi là Kiên Giang dù lúc đó ông chưa lấy nghệ danh này) quyết đi tìm.

Đến xóm biển, người ta chỉ cậu đến nhà ông quản thủ địa bộ tên N.Đ.L (ông này vốn người gốc miền Bắc, thấy “đồng hương” lưu lạc đến tận cái xứ chót biển phương Nam này nên đón về, cho ở nhờ). Hỏi người nhà ông Lý thì họ bảo: “Ông Bắc Kỳ đang ngủ ngoài đình”. Kiên Giang ra đình thờ Nguyễn Trung Trực (sau này mới nâng cấp thành đền thờ), lúc ấy đã hơn 9 giờ sáng mà thấy cảnh vật vắng hoe. Ông hỏi thăm một bà hàng nước xem có người nào dáng vẻ nho nhã như mình đã mường tượng không. Bà hàng nước chép miệng bảo: “Chẳng thấy nhà thơ nhà thẩn nào cả, chỉ có một anh hàn sĩ giống hệt “Trần Minh khố chuối” ngày nào, lật nóp nằm ngủ sau cửa đình. Chắc là ổng muốn xin Ngài báo mộng chi đó?”

Lúc này Kiên Giang mới nhìn kỹ, thấy một người vẫn còn nằm ngủ trong chiếc nóp. Đi quanh chiếc nóp một lúc, Kiên Giang đánh bạo đập dậy: “Ông ơi, tui nghe nói ông vừa tới đây, tui cũng là người làm thơ. Xin chào mừng ông!” Dụi mắt nhìn cậu học trò thiếu niên, câu đầu tiên của nhà thơ là “Có thuốc không?” Thời may, Kiên Giang cũng mới tập tành hút thuốc. Trong túi có bao Cotab còn sót lại hai điếu. Sau khi hút hết cả hai điếu thuốc, Nguyễn Bính xé vỏ bao thuốc lá và ghi liền vào đó 4 câu thơ tặng người bạn mới:
Có những dòng sông chảy rất mau
Nhớ chi nghĩa bến với duyên cầu
Lá vàng hoa đỏ trôi không kịp
Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau.
Sau khi Nguyễn Bính cuốn chiếc nóp để vào một góc đình. Kiên Giang mới kịp ngắm trang phục của nhà thơ: quần soóc, chiếc áo sơ mi đã cũ, vạt sau dài hơn vạt trước. Nhà thơ đi xuống mé sông rửa mặt rồi kéo vạt áo sau lên lau. Kiên Giang thỏ thẻ mời nhà thơ đi thưởng thức cà phê Quảng Phát - ngay chợ Rạch Giá, gần tiệm thuốc tây Nguyễn Khoa Dai. Khi Kiên Giang hỏi sao nhà thơ không ở nhà ông Ng.Đ.L nữa? Nguyễn Bính cười buồn bảo rằng tại bà vợ ông này đẹp quá, mái tóc xoã dài cứ nằm trên võng ngâm thơ... Nguyễn Bính! Ông chồng phát ghen, có cử chỉ sao đó nên Nguyễn Bính buồn, bỏ ra ngoài đình ngủ. Kiên Giang sực nhớ cách đó không xa có căn nhà bỏ trống của một người coi giữ sân banh (sân bóng đá), nên đã cùng Nguyễn Bính đi tìm người này điều đình để nhà thơ có chỗ trú thân.

Mộc Kiều Trang và 2 tâm hồn thơ

...và bây giờ

Vậy là căn nhà bỏ hoang đã lâu ngày nay được hai thầy trò ra sức sửa sang lại cho có vẻ tươm tất. Trước nhà có con mương nhỏ với chiếc cầu gỗ bắc vào khoảng sân đóng đầy rêu, Nguyễn Bính đặt tên “giang sơn” của mình là “Mộc Kiều Trang”. Ở trong nhà có một bộ ngựa - sau này vừa là chỗ ngủ, vừa là bàn viết và cũng là bàn nhậu của hai hồn thơ. Sau nhà có một chái bếp, cỏ ô rô, cóc kèn mọc chen vào kẽ vách, Kiên Giang tính dọn sạch cỏ nhưng Nguyễn Bính cản: “Để vậy cho... hoang dã!”

Dạo đó, bà mẹ của Kiên Giang làm nghề bán mắm cá đồng trong nhà lồng chợ Rạch Giá. Bà không thể ngờ rằng cậu quý tử vẫn rình mỗi lần bà rời khỏi quầy là thọc tay vào “thó” mấy đồng để mua thức ăn, gạo thì xúc ở nhà để “tiếp tế” cho ông thầy. Nguyễn Bính không biết ăn mắm như dân Nam Bộ, nhưng rượu đế thì uống tì tì! Khi chỗ ở đã tạm ổn định, Nguyễn Bính viết mấy câu thơ dán trước cửa:
Từ dạo về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những phường phú quý xin đừng đến
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu.
Chữ Nguyễn Bính rất đẹp, ông thường chép lại những bài thơ cũ của mình dán đầy lên vách:
Ở đây ngày lại qua ngày
Nhà không mở cửa mưa đầy tuần trăng
hoặc bài Những người của ngày mai:
Quê các anh ở miền Bắc xa xôi
Bước chân đi đã biết mấy năm rồi
Xa chiếc cầu ao, xa mái rạ
Cô gái làng gội tóc nước hương nhu...
Quê anh ở miền Trung bát ngát
Bãi cát vàng bờ biển uốn quanh co...
Dưới mái Mộc Kiều Trang chỉ có hai thầy trò nhưng mỗi bữa ăn thường kéo dài hai, ba tiếng. Vừa ăn vừa đàm đạo chuyện văn chương, chuyện kháng chiến...

Bài thơ Tiền và lá của Kiên Giang cũng được sáng tác trong dịp này (cho nên văn phong cũng bị ảnh hưởng Nguyễn Bính ít nhiều - NV). Trò đọc cho thầy nghe, thầy khen nhưng sửa lại vài chỗ, như ở câu “Tiền không là lá em ơi/Tiền là giấy bạc của đời phồn hoa”, Nguyễn Bính sửa lại “Tiền là giấy bạc của đời in ra”, rồi ở câu cuối: “Chợ đời họp một mình tôi. Phiên chiều” được sửa là “Chợ đời họp một mình tôi vui gì!”...

Tình nghĩa thầy trò ở Mộc Kiều Trang chỉ kéo dài mấy tháng, khi Kiên Giang trở về xóm Xẻo Đước (làng Đông Yên) chở lúa gạo cho gia đình cũng là lúc phong trào “Nam kỳ tự trị” của Nguyễn Văn Thinh đang lúc cao trào, họ tuyên truyền “Đả đảo Bắc kỳ” một cách quá khích. Mấy ngày sau, khi Kiên Giang trở lại Rạch Giá thì hay tin Nguyễn Bính bị bắt giam ở bót Giếng Nước gần Trường con trai (Nam học đường), ông có mua xôi và thuốc lá hiệu Mélia tiếp tế cho thầy. Khoảng nửa tháng sau Nguyễn Bính được thả, ông buồn rầu nói với Kiên Giang: “Chắc là anh phải xa em thôi”. Rồi Nguyễn Bính âm thầm vào chiến khu. Ít lâu sau, Kiên Giang nghe nói Nguyễn Bính đang là Chủ tịch Hội Văn nghệ Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Lần gặp cuối cùng giữa hai thầy trò là ở xóm Nước Trong (Khu 9), Kiên Giang đãi thầy một bữa thịt gà, do mình “cải thiện” được!

Năm 1956, Kiên Giang lên Sài Gòn làm “thầy cò” (sửa mo-rát) cho báo Tiếng chuông, hàng xóm có một “ông cò” thứ thiệt (cảnh sát) hay hoạnh hoẹ. Tức mình, Kiên Giang cũng dán bài thơ của Nguyễn Bính trước cổng:
Từ dạo về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
và chữa lại:
Những thằng bất nghĩa xin đừng đến
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu...
Phần 5: Người “nghệ sĩ chiến binh” Đồng Tháp Mười

Năm 1943, Nguyễn Bính và một số bạn bè văn nghệ từ miền Bắc đã “thâm nhập” vào làng báo Sài Gòn. Hai năm sau, Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Nguyễn Bính có mặt trong đoàn người khởi nghĩa.

Nguyễn Oanh chinh phục Nguyễn Bính

Từ một nhà thơ diễm tình lãng mạn, điều gì đã khiến Nguyễn Bính chuyển hướng: dùng ngòi bút của mình để đấu tranh, phục vụ cuộc kháng chiến của dân tộc?

Thời điểm Nguyễn Bính có mặt ở Sài Gòn, với tên tuổi đã vang danh khắp nước, tác giả của Lỡ bước sang ngang luôn là tâm điểm thu hút sự chú ý của mọi người. Quanh Nguyễn Bính ngoài những bạn thơ, những độc giả yêu mến thơ ông còn có những tay trọc phú, những chính khách săn đón thi nhân ra cái điều ta đây cũng biết “chiêu hiền, đãi sĩ”. Đặc biệt trong số những người thường lui tới với Nguyễn Bính có Nguyễn Oanh (Tư Oanh) đang hoạt động bí mật (phụ trách tuyên truyền của Thành uỷ Sài Gòn - Gia Định). Dần dần, Nguyễn Oanh chiếm được cảm tình của Nguyễn Bính. Khi đã có thể nhỏ to tâm sự với nhau, Nguyễn Oanh thường phân tích thời cuộc cho Nguyễn Bính nghe: chiến tranh thế giới đang đến hồi căng thẳng, ở Việt Nam, phát xít Nhật nhảy vào hất cẳng thực dân Pháp. Nhân dân ta một cổ mấy tròng: Pháp, Nhật, địa chủ, phong kiến. “Thanh niên bây giờ nên làm một cái gì đó giúp ích cho phong trào, Lưu Hữu Phước đã có những bài hát hừng hực khí thế Lên đàng, Tiếng gọi thanh niên... Không lẽ tài thơ như Nguyễn Bính mà cứ quanh quẩn mãi với những bài thơ yêu đương và những ly sầu...”

Nguyễn Bính cũng nhận thức được điều này, nhưng để có sự chuyển hướng sáng tác không dễ chút nào. Để có cảm hứng sáng tác với đề tài hoà nhập cùng thời cuộc, Nguyễn Bính đã có một cuộc “hành hương” về những địa danh đã gắn liền với tên tuổi của các lãnh tụ khởi nghĩa, những sĩ phu yêu nước: Bùi Hữu Nghĩa, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị... Ở đây, Nguyễn Bính được các thân hào, nhân sĩ Nam Kỳ tiếp đón ân cần, nhờ đó ông nhập cuộc được ngay vào khí thế sôi nổi của miền Nam trong những ngày chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa...

Đi theo tiếng gọi của Tổ quốc

Trong tác phẩm Giọt mật cho đời, nhà văn Phạm Tường Hạnh viết: “Đêm 24.8.1945 Nguyễn Bính đã cùng theo với phong trào của thị xã Mỹ Tho, bằng các loại xe buýt, xe con, xuồng, ghe, ca-nô, trực chỉ Sài Gòn cùng các địa phương khác. Đúng 5 giờ sáng ngày 25.8.1945, cách mạng chiếm lĩnh tất cả các mặt đường, các công sở, đã giành được thắng lợi cuối cùng cho địa bàn cực kỳ quan trọng ở Nam Bộ này... Tôi đã trông thấy cái miệng cười rộng mở của anh cùng với hai tay giương cao ngọn cờ phất phới như chưa bao giờ sung sướng như vậy... Ngày 23.9.1945, cuộc kháng chiến Nam Bộ bùng nổ. Chúng tôi bặt tin về Nguyễn Bính. Nhiều anh em viết thư, nhắn gửi nhau cần tìm bằng được Nguyễn Bính, đưa anh ra chiến khu. Đó không phải chỉ riêng vì tình cảm bạn bè mà thấy anh là tài năng của đất nước...”.

Nguyễn Bính đi đâu?

Thì ra sau khi giành thắng lợi ở Sài Gòn, Nguyễn Bính được các cán bộ nòng cốt ở Mỹ Tho (bác sĩ Dương Tấn Tươi, nhà thơ Bảo Định Giang...) đưa về để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở quê hương Thủ Khoa Huân. Nhưng rồi Pháp tái chiếm Sài Gòn và đánh lan qua các vùng khác. Chiến sự diễn ra ác liệt khắp nơi... Nguyễn Bính đứt liên lạc với tổ chức liền đi về Hà Tiên ở nhà của nhà thơ Đông Hồ. Được ít lâu thì gia đình Đông Hồ chạy tản cư ngược lên Sài Gòn, Nguyễn Bính không đi theo mà tìm về Rạch Giá, rồi tình cờ gặp gỡ tạo nên mối duyên thơ với Kiên Giang - Hà Huy Hà (giai đoạn Nguyễn Bính ở với nhà thơ Đông Hồ cũng như gặp gỡ Kiên Giang chúng tôi đã đề cập ở những bài trước).

Như đã nói ở trên, Nguyễn Bính đi đến đâu cũng tạo được sự chú ý của dân sở tại. Ở Rạch Giá, ông được Mặt trận Việt Minh tỉnh mời nói chuyện trước công chúng về thơ văn chống ngoại xâm của tiền nhân. Ông đã ngâm sang sảng những áng văn của Thủ Khoa Huân, Thủ Khoa Nghĩa, Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu... rồi người ta yêu cầu tác giả Lỡ bước sang ngang đọc thơ của chính mình và ông đã ngâm: “Thà rằng chết giữa chiến trường/Còn hơn chết ở trên giường thê nhi”. Hai câu thơ này nhanh chóng lan truyền, trở thành câu hò mênh mang trên sông nước Nam Bộ.

Sau buổi đọc thơ, Mặt trận Việt Minh tỉnh Rạch Giá mời ông về làm công việc thường trực cơ quan chuyên lo văn thư. Những công văn, chỉ thị của cấp trên, nếu có kèm theo những nhận xét, ý kiến chỉ đạo thì Nguyễn Bính lại “chuyển” sang văn vần (thơ), chẳng hạn một tờ giấy báo tử được gửi đến bà mẹ có con là chiến sĩ vừa hy sinh:
Đêm đêm mẹ đốt cây hương ngát
Mẹ khấn đôi lời con có nghe
Vì nước bỏ mình là bất tử
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
Bà con lối xóm, các cụ phụ lão đến chia buồn cùng gia đình ai cũng nhẩm đọc bài thơ và xuýt xoa khen ngợi. Câu cuối tuy là dịch từ một câu thơ Đường (Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi), nhưng vẫn là một bài thơ hay, hợp thời hợp cảnh. Bà mẹ có con hy sinh cũng cảm thấy tự hào. Tờ giấy báo tử bằng thơ được lồng khung treo trang trọng trên bàn thờ cùng với di ảnh liệt sĩ.

Khi Pháp chiếm được Cần Thơ rồi đánh xuống Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên... Nguyễn Bính theo cơ quan vào chiến khu Đồng Tháp Mười và trở thành người “nghệ sĩ chiến binh” thuộc Tiểu ban Tuyên Văn - Phòng Chính trị, Bộ tư lệnh Khu 8. Tiểu ban này do nhà thơ Bảo Định Giang phụ trách chuyên lo bài vở cho tờ báo Tổ quốc, Nguyễn Bính là cây bút chủ lực về mảng thơ của tờ báo này. Như cá gặp nước, thơ của Nguyễn Bính thoả sức vùng vẫy trên tờ Tổ quốc, không phải là những bài thơ ngắn mà là những trường ca:
Bảy trăm ngàn mẫu đất
Sớt chia bốn tỉnh miền Nam
Khăng khít biên thuỳ Chùa Tháp
Nằm trong tay trái Cửu Long Giang…

Kể từ khi
Đặt chân lên đất nước này
Giặc Pháp giở trò xâm lược
Ngậm hờn vong quốc
Tháp Mười chung oán hận với non sông…
(Đồng Tháp Mười)
Giặc Pháp và bọn bồi bút tay sai luôn tìm cách lôi kéo Nguyễn Bính từ bỏ kháng chiến về Sài Gòn với những hứa hẹn hấp dẫn, nhưng Nguyễn Bính vẫn son sắt đi theo cách mạng. Để trả lời chúng, ông viết trường ca Những dòng tâm huyết, kể ra những tội ác của giặc Pháp, cuối mỗi đoạn kể tội là một câu hỏi: “...Đất nước nhục như thế/ Anh ngồi yên sao đành?” Ông còn viết trường ca Hương kể tội giặc Pháp bắt bớ, hãm hiếp phụ nữ. Hai tập trường ca sau được in trên giấy tốt, bìa đẹp gửi thẳng về Sài Gòn thay cho câu trả lời của Nguyễn Bính...

Phần 6: Từ Tiểu đoàn 307 đến Áo đêm trăng

Giữa chiến khu Đồng Tháp Mười, Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều tác phẩm tâm huyết phục vụ kháng chiến, trong đó có bài thơ Tiểu đoàn 307 và vở kịch Áo đêm trăng.

Những ngày đầu kháng Pháp, đoàn quân “nóp với giáo mang trên vai” tuy còn sơ khai nhưng đã làm nên những trận đánh vang dội: Tháp Mười, Mộc Hoá, La Bang... Đó là niềm cảm hứng để Nguyễn Bính sáng tác bài thơ Tiểu đoàn 307:
Ai đã từng qua Cửu Long Giang
Cửu Long Giang sông trào nước xoáy
Ai đã từng nghe tiếng Tiểu đoàn
Tiếng Tiểu đoàn Ba trăm lẻ bảy
Buổi xuất quân Tiểu đoàn năm ấy
Cả Tiểu đoàn thề dưới sao vàng
Người chiến sĩ tiếc gì máu rơi…

Đoàn quân lẻ bảy
Kể từ hôm ấy
Đánh đâu được đấy
Oai hùng biết mấy…
Bài thơ được đăng trên báo Tổ quốc của Bộ tư lệnh Khu 8 và mau chóng được nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc. Rồi tiếng hát Quốc Hương đã đem Tiểu đoàn 307 đi khắp sông nước Nam Bộ tạo thành một khí thế tiến công dũng mãnh cho toàn lực lượng kháng chiến ở miền Nam (đến bây giờ, bài hát đã tròm trèm 60 tuổi nhưng vẫn được nhiều thế hệ hát vang với tất cả niềm tự hào). Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí đã rất thành công ở bài hát này, tên tuổi của anh cũng theo bài hát mau chóng được nhiều người biết đến. Riêng về đơn ca, ai cũng phải thừa nhận chỉ có ca sĩ Quốc Hương là trình bày bài Tiểu đoàn 307 đạt nhất, có “lửa” nhất. Quốc Hương vừa là ca sĩ vừa là nhạc sĩ sáng tác (các ca khúc tiêu biểu: Tầm Vu, Du kích Long Phú, Đoàn người đi tòng quân...) nên rất nhạy bén khi bắt được cái thần của bài hát. Suốt mấy thập niên, Tiểu đoàn 307 luôn là bài hát “tủ” của Quốc Hương. Nó theo anh từ đồng bằng đến miệt biển, từ rừng núi đến các đô thị và ra cả nước ngoài...

Ở chiến khu Đồng Tháp Mười, Nguyễn Bính không chỉ làm thơ mà còn viết kịch. Vở kịch thơ Áo đêm trăng đã đưa tên tuổi ông lan khắp chiến khu. Trong tác phẩm Nguyễn Bính - Một vì sao, nhà văn Hoàng Tấn kể: “Ít hôm sau, chúng tôi được may mắn tham gia buổi lễ phong quân hàm cho trung tướng Nguyễn Bình, được cử hành trọng thể giữa chiến khu Đồng Tháp Mười do các đồng chí cao cấp lãnh đạo Khu và Trung ương Cục chủ trì. Một điều đáng chú ý là tham dự buổi lễ đáng ghi nhớ này còn có một số học sinh, sinh viên trí thức và nhà văn, nhà báo ở ngoài Sài Gòn, vượt qua đồn bót địch để vào bưng... Điều đặc biệt thứ hai là ta cho quan ba Claude Bastien - Trưởng đồn Mộc Hoá bị quân ta bắt sống khi tiêu diệt đồn này, cùng tham dự. Xét thấy trong khi bị giam giữ, tên này đã biết nhìn nhận ra chân lý và biết hối cải nên y sẽ được ta phóng thích. Sau phần lễ chính thức là phần văn nghệ do Bảo Định Giang điều khiển. Mở đầu, đoàn quân nhạc cử bài Tiểu đoàn 307, sau đó là đồng ca. Bài thơ Tiểu đoàn 307 của Nguyễn Bính được nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí trích đoạn phổ nhạc lần đầu tiên ra mắt khán giả. Điều khiến mọi người xem chăm chú và thích thú là tham gia đồng diễn có một số lính Pháp và lê dương bỏ hàng ngũ địch chiến đấu bên ta... Sau những bài hát, bản nhạc có xen kẽ tiết mục ngâm thơ và độc tấu là vở kịch thơ Áo đêm trăng - “cái đinh” của đêm văn nghệ.

Đây là một sáng tác mới, còn chưa ráo mực của Nguyễn Bính. Ngoài các nhân vật phụ, hai nhân vật chính là cô nữ cứu thương và người yêu của mình là anh bộ đội. Chiếc áo cô may tặng anh cho bớt lạnh khi xông pha trận mạc, là nội dung chính của vở kịch. Nguyễn Bính - tác giả thủ vai chính, còn nhà văn Đoàn Giỏi thì giả gái, đóng vai người nữ cứu thương. Dạo ấy tác giả của Đất rừng phương Nam đang ở tuổi đôi mươi, đẹp trai nên khi giả gái trên sân khấu ai cũng nhầm là phụ nữ thiệt, chỉ đến lúc Đoàn Giỏi cất tiếng ngâm bài Tống biệt thì thiên hạ mới vỡ ra... Đêm liên hoan lễ phong cấp hàm cho trung tướng Nguyễn Bình ấy kéo dài mãi tới gần sáng. Xuồng ghe tới tấp ra về, đèn đuốc sáng rực một góc trời ken dày kênh Dương Văn Dương và các nẻo kênh rạch khác quanh co. Người ta không ngớt xôn xao, bàn tán về Tiểu đoàn 307 và kịch thơ Áo đêm trăng trên đường về...”.

Cố Tổng bí thư Lê Duẩn cũng là một người yêu mến thơ Nguyễn Bính. Trong hồi ký của nhà cách mạng Trần Bạch Đằng có đoạn viết: “... Một lần Tây càn quét Đồng Tháp Mười, cơ quan di chuyển. Tôi (Trần Bạch Đằng) được phân công đi cùng với anh Ba (đồng chí Lê Duẩn) trên chiếc xuồng ba lá. Tôi bơi lái, anh Ba bơi mũi. Xuất phát từ xã Nhơn Hoà Lập xuôi theo kênh Dương Văn Dương ra sông Vàm Cỏ Tây. Đường xa bơi đêm để quên mệt, tôi đọc bài thơ Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính. Anh Ba bảo tôi đọc to một chút. Anh vừa bơi vừa nghe, thỉnh thoảng lại bình: “Hay!”... Rồi đến nơi an toàn, mặc dù gần sáng, anh bảo tôi đọc lại lần nữa. Anh gật gù: “Tay Nguyễn Bính này giỏi thật!”.

Đoàn Giỏi và Nguyễn Bính có rất nhiều kỷ niệm trong kháng chiến cũng như lúc cùng tập kết ra Bắc. Đáng kể nhất là bài thơ Nguyễn Bính mừng tác giả Đất rừng phương Nam lấy vợ trên đất Bắc (khoảng 10 năm sau dạo cùng sống, cùng viết và cùng chiến đấu ở Khu 8). Bài thơ có tên là Tuyệt tác ghi ngày 19.1.1958:
Cánh chim rời phương Nam
Xây tổ cành phía Bắc
Sông núi còn đôi miền
Nhân duyên đà thống nhất!...

Đây đó dù muôn dặm
Trong ngoài đều một lòng
Son sắt ngày thêm thắm
Mừng riêng mà vui chung
Gái đầu lòng xin đặt
Tên cháu là Hiền Lương
Trai đầu lòng xin đặt
Tên cháu là Trường Sơn!...

Kề vai nhau đấu tranh
Cho đến ngày thắng lợi
Chị về thăm quê anh
Cháu về thăm quê nội!...

Tình nghĩa càng vuông tròn
Bắc Nam càng khắng khít
Cung đàn càng véo von
Lời văn càng thắm thiết!…

Hạnh phúc vang lời thơ
Ái ân lừng điệu nhạc
Biển chung thuỷ tràn bờ
Tình yêu thành tuyệt tác!...
Phần 7: Bến đậu cho cánh chim giang hồ

Năm 1947, sau khi chia tay Kiên Giang - Hà Huy Hà, Nguyễn Bính vào chiến khu Đồng Tháp Mười tham gia kháng chiến. Ở đây ông được nhà thơ Bảo Định Giang, lúc đó là Trưởng Tiểu ban Văn nghệ Khu 8 biệt đãi.

Nguyễn Bính cũng có xuồng cà-rèm theo tiêu chuẩn “sĩ quan”, có cần vụ chèo chống. Nguyễn Bính còn được cấp một chiếc mùng to đùng để có thể ngồi trong đó “an tâm sáng tác” (muỗi Đồng Tháp Mười vo ve như... sáo thổi!). Bạn bè văn nghệ cũng có thêm nhiều người mới: Đoàn Giỏi, Truy Phong, Nguyễn Hải Trừng, Đào Anh Kha, Việt Ánh, Rum Bảo Việt, Phan Trác Hiệu... Không khí sáng tác cũng như tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật trong chiến khu thật sôi nổi...

Năm 1951, Trung ương Cục miền Nam có tổ chức một lớp tập huấn văn nghệ lấy tên là Lớp văn nghệ khoá Lê Trần tại Đồng Cùng, rừng U Minh (Khu 9). Lê Trần là nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tiến binh (đã hy sinh trước đó). Lớp học quy tụ hầu hết văn nghệ sĩ yêu nước miền Nam. Nguyễn Bính cũng được mời tham gia khoá học này, và ông vui mừng gặp lại nhiều bạn bè thân thiết từng chia ngọt, sẻ bùi dạo còn làm báo ở Sài Gòn: Hoàng Tấn, Thanh Bình, Hoàng Phố và cả cậu học trò Kiên Giang - Hà Huy Hà... rồi thêm cả những Diệp Minh Tuyền, Thái Đức, Sơn Nam, Khương Mễ, Mai Lộc... Lớp văn nghệ Lê Trần được phiên chế thành các tiểu đội theo các loại hình nghệ thuật: Văn, Thơ, Nhạc, Hoạ, Điện ảnh... Ban Điều hành gồm: Hà Mậu Nhai, Đoàn Giỏi, Trần Văn Lắm... Trưởng ban điều hành là Lưu Quý Kỳ. Nguyễn Bính thuộc phiên chế tiểu đội Thơ cùng với Hoàng Tấn, Thanh Bình, Truy Phong, Hoàng Phố... Điều oái oăm là cậu học trò cũ của Nguyễn Bính là Kiên Giang được đề bạt làm tiểu đội trưởng nên “cu cậu” nhiều lúc lâm vào thế lúng túng, không biết phải phê bình, “xử lý” ông thầy vốn “lắm tài, nhiều tật” của mình ra sao. Tuy nhiên theo Hoàng Tấn thì “Sau gần bốn tháng đăng đẵng, lớp học đã kết thúc bằng một cuộc liên hoan sôi nổi. Không ai quên được Chi Lăng, Dương Tử Giang và nhất là Hoàng Phố đã đóng góp những tiết mục cười tưởng bay được cả mái lá trong buổi chia tay này.

Phải ghi nhận với tính buông thả, phóng khoáng vốn có từ lâu, Nguyễn Bính đã tự khuôn mình vào kỷ luật theo đuổi đến cùng khoá học này là một cố gắng” (Nguyễn Bính - một vì sao sáng).

Thế nhưng có một giai thoại vui là trước đó ít hôm, Nguyễn Bính rủ rỉ, rù rì với Hoàng Tấn: “Mình đã ngoài 30 tuổi rồi, sống lẻ loi mãi cũng buồn. Mình tính khoảng 2 tháng nữa sẽ... cưới vợ!” Hoàng Tấn ớ ra, chuyện... động trời chứ chẳng chơi! Cánh chim giang hồ đã tới lúc mỏi cánh rồi, nhưng “bến đậu” là đâu? Cô dâu là ai? Anh em trong tiểu đội Thơ nghe Hoàng Tấn rỉ tai, ai nấy đều xôn xao, thắc mắc. Cuối cùng, nhân một đêm trước lúc tiểu đội Thơ chia tay, một cuộc chất vấn, trêu chọc nhau bằng thơ giữa Nguyễn Bính và các thi hữu đã diễn ra, để bây giờ trở thành giai thoại:

Thanh Bình (bắn “phát pháo mở đầu”, hỏi Nguyễn Bính):
- Phải chăng ông sắp tuyên hôn?

Truy Phong (bồi tiếp):
- Bạc tiền không có vợ con nỗi gì?

Nguyễn Bính (thản nhiên):
- Bạc tiền không có cần chi
Miễn yêu chung thuỷ việc gì cũng xong.

Hoàng Phố:
- Rằng xong thì Bính dối lòng
Thuốc không có hút thì hòng cưới ai?

Nguyễn Bính (phản ứng):
- Các anh nghĩ thế là sai
Theo “Đời sống mới”, tiền tài kể chi!

Nguyễn Hải Trừng (ở tiểu đội Hoạ sang chơi, góp ý):
- Đứng trong thực tế mà suy
Bạc tiền không có lấy gì tiếp tân?

Nguyễn Bính (bực bội):
- Đã mang tiếng bạn bè thân
Đến chơi đâu phải cầu ăn cho nhiều?

Hoàng Phố (nói khích):
- Bạn bè là chỗ thân yêu
Ít ra cũng phải... một heo, mới vừa.

Nguyễn Bính (trả đũa):
- Tưởng rằng tình bạn thiết tha
Ai ngờ lại hoá “bạn gà, bạn heo”!

Hoàng Tấn (phê phán):
- Bính ơi, xin chớ đặt điều
Bạn người, ai lại: bạn heo bao giờ?

Nguyễn Bính (chưa nguôi giận):
- Bạn người uống rượu ngâm thơ
Bạn... heo nên mới ngồi chờ thịt heo!

Thanh Bình (lại chọc):
- Ông đừng vin cớ ông nghèo
Đơm chuyện, đặt điều nói xấu bạn thơ!

Nguyễn Bính (đắc chí):
- Nào ai xuyên tạc bao giờ
Biết mình đuối lý thì thua cho rồi!

Hoàng Tấn (giả lả):
- Chuyện ăn là chuyện lôi thôi

Hoàng Phố (lái sang chuyện khác):
- Nay xin gác lại, hỏi chơi chuyện này
Vợ ông con cái nhà ai
Có phải lạc loài nên mới đụng ông?

Nguyễn Bính (trừng mắt):
- Con ai cũng giống cũng dòng
Lạc loài đâu phải là không ra gì?
Biết bao nhiêu phận nữ nhi
Cấm cung mà cũng thị phi tiếng đồn.

Truy Phong (đế vô):
- Cây có cội, nước có nguồn

Hoàng Phố (châm chọc):
- Lạc loài ắt gái chẳng còn tiết trinh

Nguyễn Bính (chỉ vào mọi người):
- Tại sao câu nệ chữ trinh
Các ông phong kiến cùng mình chẳng sai...

Chẳng biết câu chuyện “đấu khẩu bằng thơ” này kết thúc như thế nào nhưng chuyện Nguyễn Bính cưới vợ là có thật.

Trong tác phẩm Nguyễn Bính - một vì sao sáng, Hoàng Tấn kể lại: “Ít lâu sau Nguyễn Bính cưới vợ. Năm đó Bính đã 34 tuổi rồi. Sau hơn một thập niên vung vãi ân tình khắp nơi, cánh chim trời ấy đã xây tổ ấm. Bạn bè đồng chí ai cũng mừng cho Nguyễn Bính. Hôn lễ được cử hành khá đông vui. Lưu Quý Kỳ làm chủ hôn. Đối tượng trăm năm của Bính là chị Hồng Châu, một phụ nữ cứu quốc nổi tiếng đảm đang và thuộc thơ, thuộc rất nhiều thơ của tác giả Lỡ bước sang ngang. Sau khi cưới vợ, Bính xin phép tổ chức cho ra ngoài mở hiệu sách lấy tên là hiệu sách Nhân Dân ở ngay Huyện Sử. Mến yêu và ủng hộ nhà thơ, các NXB và các cơ quan báo chí kháng chiến: Nhân dân, Cứu quốc, Lá lúa, Vì Chúa - Vì Tổ quốc... vui lòng rót sách báo cho Bính, bán xong mới thanh toán tiền sau.

Năm 1954, sau chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng rồi hiệp định Genève được ký kết, Nguyễn Bính được lệnh tập kết ra Bắc trên một trong những chuyến tàu đầu tiên. Buổi tiễn đưa, Nguyễn Bính đã viết: “Xã Vĩnh Bình cờ bay đỏ chói/ Sông Chắc Băng vang dội tiếng tàu/ Câu hò, giọng hát chen nhau/ Đoàn quân tập kết Cà Mau lên đường... Con đi cho má dặn dò/ Gởi lời kính chúc Cụ Hồ muôn năm/ Con đi luôn nhớ miền Nam/ Ráng xây lực lượng vài năm trở về... Má ơi con dám quên đâu/ Con xin thề đúng như câu má thề/ Nghìn năm gian khổ chẳng nề/ Má chờ con nhé, con về má ơi...”

Nhưng rồi Nguyễn Bính đã chẳng có dịp trở về miền Nam như ông đã khao khát. Hơn mười năm sau đó, ông đã vĩnh biệt chúng ta đúng vào giao thừa xuân Bính Ngọ (nhằm ngày 20.1.1966).

Phần 8: Sao đêm chung sáng chẳng chia miền

Năm 1954, từ vùng kháng chiến U Minh Thượng (Cà Mau) Nguyễn Bính được lệnh tập kết ra Bắc. Từ đó, thơ Nguyễn Bính “bặt âm vô tín” trên thi đàn miền Nam, thế nhưng nhiều người yêu thơ ông vẫn tìm mọi cách để đọc!

Hiệp định Geneve, chia đôi đất nước. Nguyễn Bính theo tàu tập kết ra Bắc (thực chất là trở về cố hương, sau 11 năm “hành phương Nam”), để lại người vợ trẻ và đứa con mới chào đời. Ánh mắt của người vợ trẻ bồng con nhìn theo chồng trên bến tàu buổi tiễn đưa luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong cuộc đời nhà thơ Nguyễn Bính. Nỗi ám ảnh này đã hiện diện trong nhiều bài thơ của ông (Gởi người vợ miền Nam, Đêm sao sáng...). Tuy nhiên trong hoàn cảnh đất nước chia cắt, giới văn nghệ miền Nam dù rất muốn cũng không thể thưởng thức những sáng tác của văn nghệ sĩ miền Bắc. Riêng với trường hợp Nguyễn Bính thì cách vài năm sau khi nhà thơ từ trần (Tết Bính Ngọ, 1966 - NV) một nhóm ký giả Sài Gòn có ý định thực hiện một chuyên đề về Nguyễn Bính nhưng rất hiếm tư liệu, nhất là những sáng tác của ông sau 1954. Trong cuốn Sài Gòn vang bóng (NXB TP.HCM, 2001) tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang kể rằng: “Chúng tôi phải nhờ đến bác sĩ Nguyễn Trần Huân - một nhà nghiên cứu văn học và khoa học sống tại Pháp, mua hộ những cuốn sách viết về văn học kháng chiến bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Paris. Dùng tài liệu ngoại ngữ có cái thuận lợi là tránh bị cảnh sát và thông tin của chế độ Sài Gòn làm khó, nhưng cũng có cái bất lợi là những bài thơ được dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp thế nào cũng có sự sai biệt ít nhiều vì “tam sao thất bản”.

Bài thơ Đêm sao sáng của Nguyễn Bính được nhóm của Lý Nhân Phan Thứ Lang sử dụng nằm trong trường hợp này. Bài thơ được dịch giả P.V chuyển qua Pháp ngữ với tựa đề Nuit étoilé (in trong cuốn Anthologie de la poésie Vietnamienne do NXB W.E.F.R ấn hành ở Paris năm 1969. Bản dịch như sau:
Les étoiles, dans leur progressive montée
Donnent plus de profondeur au firmament
Le Fleuve d’Argent dévoile ses rives froides
Où se trouve le Pont bâti par les corbeaux...
Cherchant en vain le chapeau du Génie des Moissons
Je vois un Canard nageant dans l’espace
L’Étoiles du Soir me rappelled tes doux yeux
Au moment du départ, tout hucmectés de larmes...
La Constellation Polaire, de son plus vif éclat
Brille magnifiquement dans un coin du ciel
Toi, au Sud du dix-septième parallèle
Combien d’années tu passai à la contempler!...
Les étoiles innombrables et scintillantes
Eclairent notre patrie sans la diviser
Le ciel oublie parfois de se parer d’ étoiles:
It n’y a pas de nuit où je ne pense à toi.
(12 Janvier, 1959)
Có được bài thơ này, nhóm của ông Lý Nhân Phan Thứ Lang bèn nhờ nhà thơ Lê Vĩnh Thọ dịch ngược trở lại tiếng Việt, và đây là Đêm sao sáng của Nguyễn Bính được ông Lê Vĩnh Thọ dịch từ tiếng Pháp qua tiếng Việt:
Những vì sao càng tiến lên cao
Bầu trời càng rõ vẻ thâm sâu
Ngân Hà để lộ đôi bờ lạnh
Ô Thước còn kia một nhịp cầu...
Nữ Thần Nông tìm hoài không thấy
Anh nhìn con Vịt lội sông Ngân
Sao Hôm như mắt em hiền dịu
Đẫm lệ hôm nao lúc biệt hành...
Long lanh rực rỡ một phương trời
Bắc Đẩu, chòm sao sáng tuyệt vời
Bao năm em ngắm! Em bên đó
Phương Nam bờ vĩ tuyến ngăn đôi...
Vô số vì sao đang lấp lánh
Soi chung quê mẹ cả hai miền
Trời còn có đêm không sao sáng
Anh chẳng đêm nào không nhớ em.
Khi đăng lên báo, nhóm chủ trương chỉ chú thích là do ông Lê Vĩnh Thọ nhớ đại khái theo nguyên tác, không dám ghi rõ xuất xứ là dịch từ bản tiếng Pháp vì sợ Bộ Thông tin của chế độ Sài Gòn đục bỏ.

Sau khi đất nước thống nhất (1975), ông Lý Nhân Phan Thứ Lang đã tìm mua được cuốn Đêm sao sáng của Nguyễn Bính (NXB Hà Nội, 1962), trong đó có bài thơ Đêm sao sáng với nguyên tác như sau:
Đêm hiện dần lên những chấm sao
Lòng trời đang thấp bỗng nhiên cao
Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh
Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?...

Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu
Thấy con Vịt lội giữa dòng sâu
Sao Hôm như mắt em ngày ấy
Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tàu...

Chòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi
Lộng lẫy uy nghi một góc trời
Em ở bên kia bờ vĩ tuyến
Nhìn sao thao thức mấy năm rồi...

Sao đặc trời sao sáng suốt đêm
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Trời còn có bữa sao quên mọc
Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em.
Quả là... chuyện hy hữu, một bài thơ của tác giả trong nước mà người trong nước muốn đọc lại phải trải qua một “quá trình nhiêu khê” dịch qua, dịch lại từ tài liệu do người ở nước ngoài cung cấp...

Thật may là “trình độ dịch” của nhà thơ Lê Vĩnh Thọ đã tỏ ra “có nghề” khi chuyển tải xuất sắc từ nội dung đến ý và tứ của tác giả với người đọc. Đây cũng là chuyện “xưa nay hiếm” trong làng văn Việt Nam.

Phần 9: Những vần thơ về chị Trúc

Trong nhiều bài thơ, đặc biệt là những bài sáng tác trên bước đường phiêu bạt ở phương Nam, Nguyễn Bính đã trút nỗi niềm tâm sự của mình với quê nhà, với “chị Trúc”. Vậy chị Trúc là ai?

Người tình, người mẹ, người em gái nhỏ trong thơ xưa nay không thiếu. Trong khi đó, ngay từ những bài đầu tiên và sau này suốt cuộc đời thơ, Nguyễn Bính đã giới thiệu “chị Trúc” một cách thiết tha, đằm thắm.

Ba bài thơ trong tập Lỡ bước sang ngang năm 1938 đều có ghi “Tặng chị Trúc”. Sau này chị Trúc cũng là người được Nguyễn Bính gửi gắm tâm sự trong những ngày hành phương Nam qua một số bài thơ như: Trăm câu một vần, Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương... Chẳng hạn:
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi chị một em, em một chị
Giời làm xa cách mấy con sông

...Tết này, ô thế mà vui chán
Những một mình em uống rượu hồng
Rượu say nhớ chị hồi con gái
Thương chị từ khi chị lấy chồng...
(bài Xuân tha hương)
Trong hồi ký Để nhớ Nguyễn Bính - những ngày ghé bến Hà Tiên, nữ sĩ Mộng Tuyết cũng đã viết: “...Bính thường quấn quýt bên tôi như một chú em ngoan ngoãn. Bính kể chuyện Hà Nội, chuyện giang hồ, chuyện “chị Trúc - người chị tinh thần đã an ủi Bính trong những lúc buồn nản” và hứa xem tôi như một người chị tinh thần thứ hai...”

Theo nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn - người anh bà con cô cậu và là bạn thân của Nguyễn Bính - thì Nguyễn Bính mồ côi mẹ lúc mới 3 tháng tuổi. Trên Nguyễn Bính là hai người anh: Nguyễn Mạnh Phác và Nguyễn Ngọc Thu - không có người chị ruột nào. Tuy nhiên trong tác phẩm Nguyễn Bính và tôi, tác giả Bùi Hạnh Cẩn đã dành hẳn một chương Những bài thơ về chị Trúc để “giải mã” về nhân vật nữ vừa rất thật mà cũng rất bí hiểm này.

Chị Trúc tên thật là Lê N. Th. (ông Cẩn viết tắt như thế) - một người phụ nữ đẹp nổi tiếng ở Hà Đông vào những năm 1930-1940. Nhà có một hiệu ảnh nhưng anh chồng lại vướng vào nghiện ngập, hút sách suốt ngày cứ nằm co quắp bên bàn đèn để một mình chị vợ phải lo toan, gánh vác việc gia đình. Cho nên cũng dễ hiểu khi người thiếu phụ một con này gặp gỡ và đem lòng yêu Nguyễn Mạnh Phác (anh cả của Nguyễn Bính) - lúc đó đang dạy học và làm văn nghệ (viết kịch, viết báo, làm thơ...) ở thị xã Hà Đông. Vì là mối tình thầm lén nên chị Th. được những người trong cuộc gọi là “Trúc”. Yêu thương người tình nên chị Trúc cũng quý mến và rất chiều Nguyễn Bính, coi như em. Ngược lại, Nguyễn Bính cũng rất tôn trọng và cảm thông với cảnh ngộ ấy nên đã làm nhiều bài thơ chia sẻ nỗi niềm với chị Trúc.

Một bữa, nhà văn Lê Văn Trương về Hà Đông thăm bạn bè và mời Nguyễn Mạnh Phác viết cho báo Ích hữu do mình phụ trách. Đến lúc này thì Nguyễn Mạnh Phác cần có một bút hiệu. Theo lời ông thân sinh của Bùi Hạnh Cẩn (anh ruột của mẹ Nguyễn Bính - NV) thì bà thân của họ Nguyễn đã “đẻ rơi” Mạnh Phác ngoài đường lộ. Do vậy, Mạnh Phác còn có tên gọi ở nhà là “cu Đường”. Thế là họ bèn lấy tên “người em văn nghệ” của Mạnh Phác (cô Trúc) gắn với tên... cu Đường, thành bút hiệu là Trúc Đường (sau này Trúc Đường là nhà viết kịch nổi tiếng ở miền Bắc). Từ đó Trúc Đường thôi dạy học, lên Hà Nội làm báo Ích hữu rồi làm ở nhà in Lê Cường, mối tình với chị Trúc càng thêm thắm thiết.

Nhưng một hôm, chị Trúc đang ngồi đan áo tặng Trúc Đường thì hay tin nhà in Lê Cường vừa xuất bản tập thơ của một tác giả nữ do chính Trúc Đường biên tập. Người đẹp Hà Đông liền nổi máu “sư tử Hà Đông”, vứt chiếc áo đan dở sang một bên và tuyên bố không thèm gặp Trúc Đường nữa. Nguyễn Bính nghe chuyện rất buồn, gửi cho chị Trúc một bài thơ nhằm thanh minh cho anh trai:
...Người ấy yêu thương chị nhất đời
Trọ qua đêm ấy song người ấy
Với chị đêm nào cũng nhớ thương...
Chị hãy nghe lời em bé đây
Hết buồn, hết khóc từ hôm nay
Vui lên chị ạ rồi đan áo
Em thấy cây vườn sắc lá thay...
(Gửi chị Trúc)
Nhưng những lời thơ thiết tha, khẩn khoản ấy không ngăn được dòng nước mắt cũng như sự ghen hờn của người thiếu phụ. Nguyễn Bính lại gửi tiếp cho chị Trúc nhưng lời thơ thống thiết:
Em thấy hình như chị khóc luôn
Mấy ngày môi chị biệt ly son
Buồn không trang điểm, buồn không nói
Ai đã làm cho chị Trúc buồn?...
Em hỏi vì sao? Chị lặng yên
Để lời em hỏi chịu vô duyên
Nhưng rồi chị kể loanh quanh mãi
Em mới hay rằng chị đã ghen
(Chị đã ghen)
Những năm đầu thập kỷ 40 thế kỷ trước, trong không khí ngột ngạt của Đệ nhị Thế chiến sắp tràn tới Đông Dương thì những văn thi sĩ miền Bắc lại có phong trào “giang hồ vặt”, thích phiêu bạt, dịch chuyển. Nguyễn Bính cũng đã tỏ ra giận hờn, trách cứ Bùi Hạnh Cẩn khi ông anh bà con của mình “giang hồ bỏ cuộc nửa chừng”:
Tháng ngày lần lữa trôi qua
Gió Đông Nam vắng nghĩ mà buồn tênh
Nằm bên sông Mã xứ Thanh
Tôi buồn khi biết thuyền anh quay về
(Gửi Bùi Hạnh Cẩn)
Năm 1943, mấy nhà thơ, nhà văn trẻ Nguyễn Bính, Tô Hoài, Vũ Trọng Can từ Bắc vào miền Trung, vô Nam rồi lại trở ra. Thời kỳ này, Mạnh Phác và chị Trúc luôn gửi tiền vào Huế “tiếp sức” cho cậu em vốn nghèo mà lại khoái đi giang hồ. Đó cũng là giai đoạn Nguyễn Bính viết Xuân tha hươngXuân vẫn tha hương:
...Vườn nhà tết đến hoa còn nở?
Chị gửi cho em một cành hồng
(Tha hương chẳng gặp người tri kỷ
Một cánh hoa tươi đỡ lạnh lòng...)
Không hiểu vì sao hai đứa lại
Chung lưng làm một chuyến đi đày
Mai đây bỏ Huế rồi quên Huế
Quên được làm sao bữa rượu này...
(Xuân tha hương)
và:
Đêm ba mươi tết quê người cũng
Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương
Chị ạ, em không người nước Sở
Nhớ nhà đâu mượn tích Trương Lương
Đất khách tình dâng nhoà mắt lệ
Ôi nhà, ôi chị... ôi quê hương
(Xuân vẫn tha hương)
Chị Trúc chỉ là một hình bóng thoáng qua trong đời thơ Nguyễn Bính nhưng đã được nhà thơ trân trọng, tôn thờ đến hết đời. Ông mồ côi mẹ từ lúc còn ẵm ngửa, thiếu thốn tình mẫu tử lại không có chị, có em gái nào. Thế nên chị Trúc dù không có chút quan hệ huyết thống nhưng lại rất thân thiết, gần gũi trong tâm hồn hết sức nhạy cảm của nhà thơ.

Phần 10: Ngày Nguyễn Bính ra đi

Hầu như ai cũng biết Nguyễn Bính ra đi vào một ngày giáp Tết Bính Ngọ (1966), chính xác là ngày 29 Tết (tháng chạp này không có ngày 30). Tuy nhiên, kể về cái chết của ông thì mỗi người nói một kiểu, không thống nhất.

Vội vã ra đi

Dưới đây, chúng tôi xin dẫn theo nhà văn Vũ Bão, người bạn thân thiết với Nguyễn Bính ở Ty Văn hoá Hà Nam.

Sau khi tờ Trăm hoa do Nguyễn Bính thực hiện ở Hà Nội đình bản, Nguyễn Bính bị “thất sủng”, trôi dạt về quê Hà Nam. Ở đây ông chơi thân với nhà văn Vũ Bão. Vũ Bão kể:
Khi làm báo Hà Nam, tôi và Nguyễn Bính có một người bạn chung tên là Đỗ Văn Hứa, người thôn Mạc Hạ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Anh này làm nghề bốc thuốc Đông y nhưng cũng viết báo, làm thơ, lấy bút hiệu là Tân Thanh. Đặc biệt, anh rất yêu thích thơ Nguyễn Bính nên mỗi lần về Ty Văn hoá Hà Nam họp, Tân Thanh lại khẩn khoản mời Nguyễn Bính về nhà mình chơi. Được cái cô Sang - vợ Tân Thanh - là người rất mến khách, mỗi lần chúng tôi về nhà là cô tiếp đón niềm nở, cố lo cho được bữa cơm để chồng tiếp đãi mấy ông anh văn nghệ chứ không hề có một thái độ, cử chỉ tỏ ra phiền hà.

Khi Nguyễn Bính được Ty Văn hoá Hà Nam phân phối một chiếc xe đạp, ông bòn mót mãi cũng chưa đủ nửa số tiền, vợ chồng Tân Thanh đã sốt sắng góp giúp khoản tiền còn lại. Có xe đạp, chỉ cần khoảng nửa tiếng là Nguyễn Bính đã có thể về thăm vợ con (bà Lai - NV) đang sơ tán ở Đại Hoàng. Nhưng bản tính của Nguyễn Bính là thích có bạn tâm sự, cho nên dạo làm ở Ty Văn hoá, cứ hết giờ hành chánh là Nguyễn Bính đạp xe về thôn Mạc Hạ chơi với vợ chồng Tân Thanh. Đối với tôi, vợ chồng Tân Thanh cũng sẵn sàng cho vay tiền mua nhà. Nguyễn Bính thường hay nói với vợ chồng Tân Thanh: “Tôi đến với hai cô chú là vì cái tình. Tôi coi Hứa (Tân Thanh) như thằng em ruột tôi, coi cô như là em dâu nên tôi mới về đây”. Người ta đồn thổi Nguyễn Bính ưa về Mạc Hạ là vì... có Tân Thanh cung phụng rượu chè! Thực ra, Tân Thanh không biết uống rượu. Mỗi lần về Mạc Hạ, hai anh em chuyện trò cho đến tận khuya mới đi ngủ...

Tết Bính Ngọ 1966 - Tết thời chiến nên toà soạn báo dành cho tôi một chế độ riêng: Ba ngày Tết, tôi xuống các đại đội pháo cao xạ ăn Tết với lính, toà soạn coi đó là 3 ngày đi công tác. Mùng 4 Tết tôi mới được nghỉ, đạp xe đi thăm đây đó... 10 giờ ngày mùng 4 Tết, tôi tới nhà Tân Thanh ở Mạc Hạ. Vừa nhìn thấy tôi dắt xe đạp vào trong sân, cô Sang đã nói ngay: “Bác Vũ ơi, bác Bính mất rồi!”. Tôi đứng sững lại: “Ai nói với cô?”. Cô Sang nói tiếp: “Tuần trước, bác ấy đạp xe về nhà em. Trời trở gió, vừa vào tới nhà, bác ấy đã bảo nhà em đưa bác đi bệnh viện. Thời may, bệnh viện huyện lại sơ tán ngay xã em. Bác ấy bị thổ ra máu. Nằm ở bệnh viện huyện 3 ngày, sức khoẻ hơi đỡ, lại về nhà em lấy xe đạp tính về Đại Hoàng ăn tết với vợ con. Hôm ấy đã là 29 Tết rồi.

Thấy bác còn mệt, chúng em sợ bác không đủ sức về tận Đại Hoàng nên cố giữ bác lại ăn Tết cùng chúng em... Sáng sớm 30 (*), nhà em tính sang chỗ hàng xóm chia thịt lợn mang về cái đùi và một ít lòng, tiết canh để hai anh em ăn cơm. Bác Bính bảo nhà em cứ ở nhà ăn với bác bát cơm cái đã. Nể bác, nhà em ngồi nán lại ăn cơm. Bác Bính có thói quen ăn xong là đi rửa tay. Bác vắt khăn lên vai, lò dò bước xuống cầu ao. Bỗng chúng em nghe tiếng bác gọi “Tân Thanh!” Nhà em chạy vội ra sân, thấy bác Bính đang gục xuống bên gốc mít, cạnh hố vôi. Nhà em xốc bác lên, tựa người bác vào ngực mình. Miệng bác đầy máu, bác thổ ra huyết. Nhà em chạy đi gọi anh Huê và anh Đáp, nhờ họ cáng bác lên bệnh viện gấp. Y sĩ khám cho bác ấy xong mới cho nhà em biết bác ấy mất rồi. Nhà em ra bưu điện huyện gọi điện báo tin cho bác Trúc Đường và Ty Văn hoá... Em phải qua chỗ chia thịt lợn với hàng xóm. Cầm suất thịt về em càng thương bác Bính, bác đã đi rồi, ba mươi Tết, bác đã nhìn thấy miếng thịt nào đâu, đã ăn được miếng dồi, miếng tiết nào đâu mà bác đã vội vã ra đi...
Điềm báo

Trong cuốn Giai thoại Nguyễn Bính, nhà văn Vũ Nam kể: “Cuối năm 1965, nhằm chuẩn bị cho kỷ niệm 200 ngày sinh Nguyễn Du - người mà Nguyễn Bính vốn coi như “tổ sư” của mình trong lĩnh vực làm thơ (Nguyễn Bính chẳng phục nhà thơ nào, chỉ trừ... Nguyễn Du!), báo Xuân năm Bính Ngọ ra số đặc biệt với nhiều bài vở về Nguyễn Du (1966). Hôm duyệt bài báo Tết, Nguyễn Bính cười thật tươi, tay cầm một xấp giấy mỏng, khoe: “Chỉ trong một đêm, tôi đã viết được một bài tập Kiều, vịnh cụ Tiên Điền”.

Nguyễn Bính không cho ai xem mà chờ cho đến lúc đông đủ anh em mới trịnh trọng giở những trang giấy được viết thật công phu, chữ đẹp như xếp, rồi hắng giọng ngân nga:
KÍNH TẶNG CỤ NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU:

Cảo thơm lần giở trước đèn
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa
Trăm năm trong cõi người ta
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau
Khen tài nhả ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Mấy lời ký chú đinh ninh
Rằng tài nên trọng, mà tình nên thương
Khen rằng đáng giá Thịnh Đường
Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai
Gẫm câu người ấy, báu này
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Nặng vì chút nghĩa xưa sau
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
Thương vui cũng tại lòng này
Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Tưởng người nên lại thấy người về đây.
Cả hội đồng duyệt bài số báo Tết hôm ấy, ai cũng lặng người. Bài tập Kiều tuy là để tặng cụ Tiên Điền nhưng nghe sao như tâm sự của Nguyễn Bính đang muốn... tổng kết đời thơ của mình, để lại chút gì cho ngày sau. Ai cũng bảo tập Kiều này nghe như “có điềm báo trước”. Nguyễn Bính cười trừ: “Các ông mê tín! Cứ hay là được rồi. Tôi xin nộp bài này. Một câu một chữ không sửa!”.

Còn nhà văn Chu Lai thuật lại: “Mùng sáu tháng giêng ta, tôi lên Hội Nhà văn thông báo về việc anh Bính mất. Gặp Tô Hoài, cùng ngậm ngùi nói chuyện về người bạn mới mất. Sau đó, tôi tìm đến nhà Trần Lê Văn. Nghe tin Bính mất, Trần Lê Văn tròn xoe mắt kinh ngạc: “Bính chết thật ư? Bao giờ?”. “Ba mươi Tết, trước giao thừa” (*). Trần Lê Văn bỗng xịu mặt, đấm vào đùi bình bịch: “Biết mà! Biết mà! Chết trước mồng một, đã lường thấy từ bao giờ”. Tôi gặng hỏi: “Sao anh lại nói vậy?”. Trần Lê Văn nói như gắt: “Ô kìa! Năm mới tháng giêng mồng một Tết. Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân”, rồi “... Giờ đây chín vạn bông hoa nở/Riêng có tình ta khép lại thôi” (**). Nó để mùa xuân nguyên vẹn cho người. Nó đi mà”. Tôi sực nhớ bài tập Kiều Lời lời lệ sa máu rỏ đăng trân trọng trong số báo Tết. Ôi, thương quá! Chẳng lẽ trong thơ có quỷ, có ma thật chăng?!”...


* Có sự nhầm lẫn về ngày mất của Nguyễn Bính trong các tư liệu này.
** Nhạc xuân - thơ Nguyễn Bính.

Hà Đình Nguyên (báo Thanh niên, 3-2010)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Bính: Người cài đặt nhiều "mật mã" trong thơ

Tác giả: Tường Duy


Ở ta, khi viết thơ tình, đa phần các nhà thơ đều không muốn đưa tên thật của "nguyên mẫu" vào trong tác phẩm của mình. Đó có thể do họ ngại... phiền phức, hoặc do thói quen. Riêng Nguyễn Bính thì khác hẳn. Mỗi lúc thầm yêu trộm nhớ một "em" nào, ông đều tìm cách đưa được tên người đó vào thơ.

Tất nhiên, vì là nhiều... "em", nên nhà thơ thường cũng chỉ dám đưa một cách kín đáo, nghĩa là để nó đồng âm đồng nghĩa với một chữ nào đó trong câu thơ, và phải là người "trong cuộc" hoặc thật thân gần mới nhận ra. Bởi vậy, nói Nguyễn Bính là người cài đặt nhiều "mật mã" trong thơ, kể cũng không ngoa.

Theo sách "Giai thoại văn học" (NXB Hà Nội, 2005) thì mùa hè 1941, Nguyễn Bính trên đường vô Nam đã dừng bước tại thị xã Thanh Hóa. Tại đây, trong thời gian ăn nghỉ ở nhà người bạn làm thư ký hỏa xa là Nguyễn Hải Thoại, Nguyễn Bính đã bị hút hồn bởi một giai nhân tên Thuận.

Có không ít đêm, Nguyễn Bính tít mít ở xóm Lò Chum nơi cô Thuận đang sống phận đào nương. Sợ bạn sốt ruột, lo lắng, Nguyễn Bính làm mấy câu thơ nhờ người đưa về cho Hải Thoại:

"Thuận lòng đón gió cành đưa
Hẹn ngày có thấy cho vừa lòng nhau"

Đọc hai câu thơ trên, lại thấy chữ Thuận được viết đậm, Hải Thoại đoán ngay Nguyễn Bính đã phải lòng cô Thuận. Ông tức tốc xuống xóm Lò Chum tìm bạn. Quả nhiên Hải Thoại đã gặp Nguyễn Bính ở đây.

Nữ sĩ Mộng Tuyết, trong hồi ký "Dưới mái trăng non" có nhắc tới chuyện tình của Nguyễn Bính với "một người con gái quê" có tên là Ngọc. Bà kể, một buổi chiều, cô gái này đã trao cho bà một mảnh giấy nhàu nát, nội dung là "xin một cây bút máy tốt và chiếc đồng hồ đeo tay".

Cuối tờ giấy là dòng chữ "Người yêu Ngọc" (mà bà gọi là "Bính ký ẩn danh") và hai câu thơ của Nguyễn Bính:

"Than ôi, không có giá liên thành
Để đổi cho tròn viên ngọc ấy"

Cùng là người làm thơ, chẳng khó khăn gì mà nữ sĩ Mộng Tuyết không nhận ra tâm sự của Nguyễn Bính với người con gái tên Ngọc trong câu thơ có nhắc tới chữ "ngọc" ấy

Trong bài thơ "Diệu vợi", làm lời kẻ thất tình, Nguyễn Bính đã hốt nhiên thốt lên một cái tên:

"Tôi tưởng rồi tôi quên được người
Nhưng mà nản lắm, Tú Uyên ơi!
Tôi vào sâu quá và xa quá!
Đường lụt sương mờ lụt lá rơi..."

Đọc đến đây, hẳn bạn đọc yêu thơ sẽ nghĩ ngay rằng, Tú Uyên là một cái tên có thật, và người con gái đó hẳn phải có quan hệ sâu nặng mức nào mới khiến thi nhân đủ "can đảm" đưa tên công khai như thế.

Sự thật thì đấy chỉ là một "bí danh" do Nguyễn Bính tách ra từ chữ Tuyên (em gái nhà văn Nguyễn Đình Lạp, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Tuyên). Chưa dừng ở đó, trong bài "Người con gái ở lầu hoa", Nguyễn Bính còn "mã hóa" nơi ở của cô gái qua hai câu thơ:

"Nhà nàng bên gốc cây mai trắng
Trên khóm mai vàng dưới đế kinh"

Nguyễn Bính đã giải thích với một người bạn, đại ý, cô gái ở Bạch Mai (bấy giờ được coi là một xóm ngoại ô của Hà Nội), vậy "Nhà nàng bên gốc cây mai trắng" chẳng là Bạch Mai là gì? Còn "Trên khóm mai vàng" thì đúng là Hoàng Mai. "Dưới đế kinh", tức... dưới phố Huế.

Với nữ sĩ Anh Thơ, người từng một thời làm Nguyễn Bính "say như điếu đổ", Nguyễn Bính cũng đã có thơ tặng. Bài thơ viết theo thể lục bát:

Anh đi không hẹn ngày về
Chỉ thề ai buộc, tóc thề ai chôn?
Muốn gì anh muốn gì hơn
Hôn hoàng nay, lại hoàng hôn mai ngày
Môi khô vóc liễu thêm gầy
Anh xa, em kẻ lông mày với ai
Thơ không làm trọn một bài
Đàn không gảy trọn một vài khúc ngâm
Ông tơ già quá nên nhầm
Ai làm sum họp, ai làm chia phôi
Chẳng thà đừng kết duyên đôi
Có cho sum họp để rồi xa nhau
Tính năm tính tháng thêm sầu
Ấy hai con én ngang lầu bay bay...

Cái độc đáo của bài thơ là ghép tất cả những chữ đầu của 8 câu thơ, ta sẽ đọc ra thông điệp của tác giả "Anh chỉ muốn hôn môi Anh Thơ. Đàn ông ai chẳng có tính ấy". Thật là một cách tỏ tình... táo bạo. Táo bạo nhưng lại được thể hiện một cách khá... kín đáo. Bởi nếu tác giả không chỉ dẫn, hẳn không phải ai cũng nhận ra.

Trong một bài viết có tựa đề "Mảnh vườn ao của nhà ngoại Nguyễn Bính", nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn cho biết: Ở thôn Vân (quê ngoại Nguyễn Bính) có cô Diễm đẹp nổi tiếng một vùng.

Trong thời gian ở đây, Nguyễn Bính thường trò chuyện với cô và giống như cánh trai làng, ông gần như "chết mê chết mệt" trước nhan sắc và sự duyên dáng của Diễm. Và, ông đã bày tỏ tình cảm với cô qua bài thơ "Hoa và rượu" sau khi đã đổi Diễm thành Nhi:

"Ngày xưa còn nhỏ Nhi còn đẹp
Huống nữa giờ Nhi đã đến thì
Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ
Cho người thiên hạ phải say Nhi"

Ngoài những trường hợp kể trên, đọc thơ Nguyễn Bính, độc giả thi thoảng lại thấy ông nhắc tới một nhân vật mà ông gọi là "chị Trúc" (các bài "Lỡ bước sang ngang", "Xuân tha hương, "Xuân vẫn tha hương"...)

Vẫn theo thông tin từ nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn thì "chị Trúc" là người đàn bà đẹp nổi tiếng ở thị xã Hà Đông trước đây. Chị họ Lê, tên thật viết tắt là Th, là người yêu của nhà viết kịch Trúc Đường, anh ruột Nguyễn Bính. Với cái lý: Vì là người yêu của anh, nên tên cũng phải được gọi theo tên anh, khi đưa tên chị Th vào thơ mình, Nguyễn Bính đã đổi ra thành chị Trúc.

Được biết, mặc dù là phận em, song trong tình cảm, có lúc Nguyễn Bính tỏ ra rất quyến luyến, mê đắm người phụ nữ này.

Chắc chắn, những ví dụ trên vẫn chưa thể hiện được một cách đầy đủ sự "mã hóa" tên người trong thơ Nguyễn Bính...

15.00
Ảnh đại diện

Thi pháp Nguyễn Bính

Nói về thi pháp Nguyễn Bính tức là nói về một dòng thơ không thi pháp. Nguyễn Bính đã vô hiệu hoá tất cả những quy luật về thi ca từ trước đến giờ. Bởi tất cả những lý thuyết về thơ, đại loại như: ngôn ngữ thơ phải là một thứ ngôn ngữ độc đáo phi thường, thoát khỏi phạm vi của lời nói hàng ngày. Nhà thơ phải bóp méo ngôn ngữ thông dụng bằng những thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ... để đạt tới ngôn ngữ thơ, mà mỗi chữ phải có một giá trị riêng biệt, khác với công dụng của nó trong ngôn ngữ hàng ngày v.v... Nói khác đi, thơ phải là những câu với lời lẽ trác tuyệt như thơ Ôn Như Hầu: “Trải vách quế gió vàng hiu hắt / Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng”.

Tất cả những nguyên tắc ngôn ngữ thơ ấy đối với Nguyễn Bính đều vô dụng. Thơ Nguyễn Bính chính là tiếng nói hàng ngày, là ngôn ngữ chúng ta thường dùng để nói chuyện với nhau, không có gì khác cả, Thơ Nguyễn Bính là lời mẹ dỗ con gái trong buồng, trước khi nhà trai đến đón dâu:

Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc nín đi không
Nín đi mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi các chị trông

Ương ương dở dở quá đi thôi
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào, lau nước mắt
Mình cô làm khổ bấy nhiêu người

Này áo đồng lầm quần lĩnh tía
Này gương này lược này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô đủ
Nào đã thua ai đã kém ai
(Người mẹ)
Thơ Nguyễn Bính là lời người dì thủ thỉ dặn dò cháu gái trong đêm tân hôn:
Dì em khe khẽ tai em dặn:
Như thế...từ nay...cháu nhớ chưa?

Chết nhỉ! Đêm nay ngủ với chồng
Trời ơi! Gió lạnh! Gớm mùa đông
Lặng yên níu áo dì em lại
Ngủ nốt đêm nay có được không?
(Giọt nến hồng, 35)
Thơ Nguyễn Bính là lời cha thi sĩ, tha thiết khuyên con gái:
Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ!
Nghèo lắm con ơi! Bạc lắm con!
(Oan nghiệt)
Từ Nguyễn Du, chưa ai viết được những lời thơ đối thoại thần tình như vậy.

Cái kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đời ấy, Nguyễn Bính lấy từ đâu? Làm sao một cậu thanh niên chưa đầy hai mươi tuổi đã có thể nằm trong da thịt và tâm hồn người đàn bà hôn nhân ngang trái, để viết nên những hàng:
Năm xưa đêm ấy giường này
Nghiến răng... nhắm mắt... cau mày... cực chưa?
(Lỡ bước sang ngang)
Nguyễn Bính không chỉ dừng lại ở ngang trái. Nhà thơ hai mươi tuổi ấy đã đi hết trọn đời người và đã viết những câu thơ tiên tri cho định mệnh của chính mình:
Bao nhiêu đau khổ ngần này tuổi
Chết cũng không non yểu nỗi gì
(Giối giăng)
*

Cho nên, sự độc đáo nhất của Nguyễn Bính là ông đã khuynh đảo tất cả những lý thuyết về ngữ học văn thơ từ trước đến giờ: thứ lý thuyết phân biệt giữa văn thơ và lời nói thông thường. Ông dùng ngôn ngữ hàng ngày để làm thơ, và thơ ông thường là một câu chuyện, ông kể lại những chuyện tầm thường nhất, ví dụ chuyện hai chiếc lá bàng rụng:
Thu đi trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi! Chiếc lá cuối cùng là đây
(Cây bàng cuối thu)
Chỉ là câu chuyện hai chiếc là vàng rụng, với những lời lẽ mộc mạc nhất, nhà thơ đã tạo nên một không gian chia lìa, một đời hoang lạnh, một tình yêu chớm nở giữa lá và người, trước khi lá kia nhắm mắt Lìa cành theo gió lá luồn qua song, người đã Hai tay ôm lá vào lòng.

Trong những trang cuối của tập Lỡ bước sang ngang, bài Chuyến tàu đêm đứng riêng một cõi. Chuyến tàu đêm là một chuyến tàu siêu thực, là tác phẩm đặc biệt của Nguyễn Bính ra khỏi quỹ đạo ngâm khúc và truyện nôm:
Gió lạnh, nghe chừng đêm thấy sâu
Mà con đò mộng đã sang đâu!
Qua song, một chuyến tàu đêm chạy
Một chuyến tàu đêm chảy rất mau

Những ánh đèn phai tựa nắng tà
Toa này toa khác nối liền toa
Chập chờn như một con giời lớn
Như một oan hồn hiển hiện ra

Tàu chạy hình như để chở buồn
Chở người đi nhớ kẻ về thương
Nâng bao nhiêu gót chân xinh đẹp
Tàu chạy đêm nay có lạc đường
...
Tàu biết bây giờ chạy đến đâu?
Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu
Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ
Chở một toa tim nặng oán sầu
Bài thơ tả một chuyến tàu đi trong mơ, đi trong tâm linh, trong cô đơn hoang lạnh và không dừng lại ở ga hồn người chờ đợi. Tính chất siêu thực không đến từ thủ pháp ghép chữ lạ như những nhà thơ khác vẫn làm, mà đến từ những chữ rất bình thường như “tàu đêm” “chảy”, “chập chờn như một con giời lớn”. Sự lộng lẫy ma quái của “con giời” ẩn chứa tất cả các thể lỏng, thể đặc, sự thay đổi hình hài, biến thiên màu sắc, tạo ra cái ghê rợm trầm uất của một con tàu ma “chở một toa tim nặng oán sầu”. Tiếc rằng nhiều bản in đã sửa “con giời” thành “con dơi”, chứng tỏ người sửa không hiểu gì về thi ca.

Nỗi đau nơi Nguyễn Bính đã nhập vào ngũ tạng nó không phải là nỗi đau lãng mạn, mà đã trở thành nỗi đau nội tâm và ý thức. Rồi bài Quán lạnh vẫn tác giả là cậu thanh niên hai mươi tuổi ấy dẫn chúng ta đến một hội ngộ bất ngờ khác:
Mùa thu đến chậm như chưa đến
Lá vội rơi theo gió vội vàng
Sương đã dâng lên, chiều lắng xuống
Bến đò đã tắt chuyến sang ngang

Đem theo cát bụi đường xa lại
Tráng sĩ dừng chân khẽ thở dài
Hơi lạnh đầm đìa trong quán lạnh
Người ta đóng giở chiếc quan tài
(Quán lạnh)
Trên cuộc đời không nguôi lữ thứ, quán là nhà, lạnh là bạn.

Nhà thơ tráng sĩ hạnh ngộ với chiếc quan tài, với nỗi chết giữa đường.

Nguyễn Bính nhỏ lệ khô bằng những gieo âm bất ngờ “Mùa thu đến chậm như chưa đến”. Tại sao lại “như” ở đây? Ở chỗ không ngờ nhất? Rồi đến “lá vội rơi theo gió vội vàng”. Lại nữa, hai lần vội, lá vội và gió vội. Tiếp theo là “Hơi lạnh đầm đìa trong quán lạnh”, lại thêm hai lần lạnh. Tất cả những bất ngờ, không chờ, không đợi ấy, dội lên không gian hoang vắng của “bến đò đã tắt chuyến sang ngang”, dẫn đến bất ngờ cuối cùng là nỗi chết: “người ta đóng giở chiếc quan tài”.

Những buồn, lạnh, vội, tạm, gặp nhau trong cái quán này. Quán của niềm đau và nỗi chết. Thi sĩ như cái quan tài phiêu lưu, lang bạt, nay chỗ này mai chỗ khác, một cái chết lưu vong, cái chết lữ thú, cái chết lạc loài, không chốn đỗ:
Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi
(Ngược xuôi)


Thuỵ Khuê

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đời và thơ bạc mệnh

Nguyễn Bính xuất hiện lần đầu trên văn đàn năm 1936 với bài Mưa xuân.

Trong Mưa xuân đã thấy xuất hiện hai đặc điểm: thơ ngâm và thơ thoại. Nhờ hai yếu tố này mà thơ Nguyễn Bính sớm đi vào lòng người. Mưa xuân kể chuyện một cô gái quê đợi gánh chèo về làng hát trong dịp tết để gặp người yêu.

Thời ấy làm thơ về cuộc sống thôn quê là một nhu cầu, một “tất yếu”, hầu như nhà thơ nào cũng viết dăm ba “bức tranh quê”. Nhờ sự lựa chọn của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam mà nhiều bài sau này trở thành bài học thuộc lòng cho học sinh như thơ của Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Tế Hanh, Bàng Bá Lân..., những câu dễ đọc, dễ nhớ:

Chiều hôm đón mát cổng làng
Gió hiu hiu thổi mây vàng êm trôi
(Bàng Bá Lân)
Thơ Nguyễn Bính cũng dễ đọc, dễ hiểu, nhưng không thể trở thành bài học thuộc lòng cho trẻ nhỏ, bởi nó có tình và nó đi ra ngoài quỹ đạo “ngây thơ” của những “bức tranh quê” cùng thời. Dù với giọng rất vô tư, thơ Nguyễn Bính luôn luôn chở cái bi đát của số phận. Tính chất bi đát gắn bó với hai chữ bạc mệnh, tiềm ẩn ngay trong những câu thơ tưởng như vui nhất của bài Mưa xuân:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa
(Mưa xuân)
Lời người con gái tự giới thiệu mình: nàng ví nàng như cây lụa trắng mà mẹ chưa đem bán. Nếu nói thơ Nguyễn Bính có chất ca dao, thì quyết không phải là ở những yếu tố ngoài da như thôn Đông, thôn Đoài, mà ở đây, gói trọn trong câu “mẹ già chưa bán chợ đàng xa” đã có chất ca dao (thân em như tấm lụa đào, nắng mưa giữa chợ biết vào tay ai). Rồi nhờ ở chữ bán, nó còn có chất Nguyễn Du (rẽ ra cho thiếp bán mình chuộc cha) nữa.

Ngay trong những câu thơ “khai bút”, ở tuổi 18, Nguyễn Bính đã nhìn thấy số phận bán mình của người phụ nữ, một ảnh hưởng Kiều và ca dao giao thoa trong tư tưởng.

Người con gái quê trong bài thơ Mưa xuân ấy, rất mới, nàng đợi người tình trong đêm hát chèo, lòng say đắm:
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em
(Mưa xuân)
Hai câu: “Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh / Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em” chứng minh một thiên tài vừa xuất hiện, với hai hình ảnh đắt giá “đêm nay giường cửi lạnh” và “thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”, nhẹ nhàng, thanh thoát, tự nhiên như lời nói, nhưng về mặt nghệ thuật thi ca là những hình ảnh tuyệt vời, sâu sắc, hiếm quý, khơi gợi nhục tình.
Nhưng gã trai lỗi hẹn, và:
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo:“Mùa xuân đã cạn ngày”
(Mưa xuân)
Nhưng người tình không đến, hội làng đã hết: mưa xuân đã ngại bay, và hoa xoan đã nát dưới chân giày, lại những hình ảnh tuyệt vời nữa. Tất cả chấm dứt bằng lời mẹ “xuân đã cạn ngày” như một chung kết cho tàn lụi: xuân đã chết.
Thơ xuân Nguyễn Bính, ngay trong buổi đầu đời, đã gắn bó với bất hạnh, đớn đau, tuyệt vọng, lụi tàn: Sự bạc bẽo của người tình ngay trong mùa xuân đã trở thành vết thương vĩnh viễn trong thi ca Nguyễn Bính:
Nhưng rồi người khách tình, xuân ấy
Đi biệt không về với... bến sông
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi
Mấy lần cô gái mỏi mòn trông
(Cô lái đò)
Đó chính là cái khác biệt sâu xa giữa những câu thơ “quê mùa” của Nguyễn Bính với những “bức tranh quê” cùng thời: các nhà thơ khác chỉ viết ra những lời tả cảnh, vui tươi, nhộn nhịp cảnh chợ, cảnh làng, cho học trò học.

Nguyễn Bính lấy cảnh quê làm nền để vẽ bi kịch của con người khuất sau, mà luôn luôn là bi kịch của người phụ nữ bị bỏ rơi, bị phản bội, bi kịch của người bạc mệnh.

Nếu chiếu vào thân phận Nguyễn Bính, người bạc mệnh ấy chính là Nguyễn Bính.

Ra đời được ba tháng thì mẹ mất, không được học trường, học ở nhà với cha và cậu. 13 tuổi làm thơ. 15 tuổi lang thang lên Hà Nội “lập thân”, làm nghề bán báo. 18 tuổi (1936) có thơ đăng báo. 19 tuổi (1937) được giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn. 20 tuổi (1938), trở thành một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời ấy... Nhưng chìm sâu trong tâm thức Nguyễn Bính, vẫn có một mặc cảm u buồn về bản thân, không mẹ, không được học “đến nơi đến chốn”:
Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm giời đầy làm thơ
(Nhà tôi)
Cái mặc cảm ấy có vì người đời đã “dạy” cho Nguyễn Bính. Dạy bằng nhiều cách. Dạy suốt cuộc đời.

Nữ sĩ Mộng Tuyết kể lại khi Nguyễn Bính đến tá túc nhà ông bà ở Hà Tiên: “Người khách thâm thấp. Phong trần hiện trên mớ tóc đen rậm, rối bồng, dài tới mang tai. Bộ âu phục cũ nhầu nát làm cho người tăng thêm phần tiều tuỵ (...) Trong khi nghe anh Đông Hồ và tôi bàn truyện Tam quốc chí, Bính không góp chuyện được, vì Bính chưa từng đọc Tam quốc bao giờ. Bính thấy xấu hổ, cũng như đã xấu hổ vì chưa biết đi xe đạp. Càng xấu hổ, khi thấy tôi và Đông Hồ tỏ vẻ ngạc nhiên vì sao mà Nguyễn Bính lại có thể chưa đọc Tam quốc chí. Thế rồi, Bính về tìm trong Vạn Vạn Quyển Lầu, đọc ngấu nghiến, suốt mấy đêm liền, hết bộ truyện” (trích “Để nhớ Nguyễn Bính những ngày ghé bến Hà Tiên”, Văn số 60, ra ngày 15/6/66 tại Sài Gòn, trang 52 và 55).

Nữ sĩ Anh Thơ, ghi lại trong hồi ký mối tình của bà với B, “người trong mộng, người lý tưởng, người tôi yêu bằng cả trái tim thơ tha thiết” rằng hai người đã “tha thiết yêu nhau” qua thư từ. Và bà kể lại về lần gặp mặt: “Tôi nhớ lại cảnh Kim Trọng ‘lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng’ gặp Thuý Kiều. Chàng là một thi sĩ thủ đô, hẳn là hết sức trang nhã, biết mọi kiểu cách lịch sự để quý yêu tôi... Bỗng từ quán nước đầu cầu sông Thương, một anh chàng thân hình lùn ngắn, cái đầu hơi to, sù lên những tóc, tay vất vội chiếc điếu cày đang hút dở, xông lại trước mắt tôi, nhe hai hàm răng đen cáu nhựa thuốc, cười sát mặt tôi...” (Từ bến sông Thương, NXB Văn học 1986, trang 101).

Rồi bà giải thích sự tan vỡ này bằng cử chỉ của Nguyễn Bính “một cái hôn bất ngờ chộp lên má tôi”, khiến bà phải “thất thanh” gọi anh bà, bởi bà là “con nhà nề nếp” cho nên “không thể nào yêu được B, nên B luôn luôn bị thất vọng, từ cô này tới cô khác, và phải tìm quên ở tiệm hút, lầu xanh” (sđd, trang 103).

Đấy là nhận xét của hai nữ sĩ. Đến nhà phê bình Hoài Thanh và nhà thơ Xuân Diệu, sự phê phán có tính chất “văn học” hơn.

Trong bài Chân quê có câu: “Hôm qua cô đi tỉnh về /Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” (ý trách người con gái quê ra tỉnh học đòi theo mốt thị thành). Nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại “vận” hai câu thơ đó vào thân Nguyễn Bính, một tác giả nhà quê, hơi có ngụ ý vô học nữa.

Về Xuân Diệu, điều đáng trách nhất ở ông, là trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, Xuân Diệu đã thực sự trở thành bồi bút, viết bài mạ lỵ Lê Đạt, tố cáo Văn Cao và riêng đối với Nguyễn Bính cư xử rất tàn tệ. Lại Nguyên Ân, trong bài nghiên cứu, tựa đề: “Xuân Diệu trong những năm 1954-58”, cho biết: “Tác phẩm mới (1969-1976) mà Xuân Diệu là một trong số vài ba nhân vật chủ chốt cầm lái, đã hầu như không nhắc gì đến Nguyễn Bính, đã làm như không hề có Nguyễn Bính trong nền thơ Việt thế kỷ XX (...) Phải nhờ có dư luận văn nghệ miền Nam nhắc nhở, tên tuổi Nguyễn Bính mới được sống lại với công chúng miền Bắc từ 1986”.


Thuỵ Khuê

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nghệ thuật tạo sầu gây tương tư

Người ta chỉ yêu thơ Nguyễn Bính, yêu sự nổi tiếng của thi nhân, nhưng khi gặp mặt, người ta vỡ mộng, người ta chê nhếch nhác quá, người ta chờ đợi một tao nhân mặc khách Hà thành. Không ai lấy một nhà thơ lang bạt, chẳng có nghề ngỗng gì để nuôi thân:

Không ai chôn cất hộ lòng tôi
Mối lái cho tôi lấy một người
(Vườn hoang)
Tất cả phũ phàng của những “người yêu”, mà thư tình đầy ắp những hộp bích quy, như Tô Hoài thuật lại, dẫn đến điều lạ lùng và cũng dễ hiểu là những mối tình tha thiết nhất trong tâm hồn, Nguyễn Bính thường dành cho những người đàn bà không quen: Người hàng xóm, Cô lái đò, Cô hái mơ, Dòng dư lệ, Viếng hồn trinh nữ... tất cả đều... không quen, vậy mà “bao nhiêu đau khổ của trần gian trời đã dành riêng để tặng nàng” Nguyễn Bính đều biết cả. Mối cảm thông của Nguyễn Bính với những người phụ nữ mệnh yểu, bị tình phụ, ngoài tâm sự của chính mình, còn là sự giao cảm của nhà thơ với định mệnh, với cái chết, tương tự như mối linh cảm giữa Kiều và Đạm Tiên. Sự cảm thông tình yêu qua cái chết, giải thích mối linh ứng diệu kỳ giữa những người không quen ấy:
Nàng đã qua đời để tối nay
Có chàng đi hứng gió heo may
Bên hồ để mặc mưa rơi ướt
Đếm mãi bâng quơ những dấu giày...

Người ấy hình như có biết nàng
Có lần toan tình chuyện sang ngang
Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé
Đã cắm nghìn thu ở suối vàng

Có gì vừa mất ở đâu đây?
Lòng thấy mềm như rượu quá say
Hoảng hốt chàng tìm trong bóng tối:
Bàn tay lại nắm phải bàn tay
....
Tôi với nàng đây không biết nhau,
Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
(Viếng hồn trinh nữ)
Nhưng còn một yếu tố khác, đã khiến thơ Nguyễn Bính rung động nhiều thế hệ lòng người: âm điệu. Bất cứ người Việt nào xa nước đã lâu không về, tình cờ nghe thấy một âm giai ngũ cung, trong lòng không khỏi gợn lên chút gì, như tiếng sóng. Những tiếng ru, tiếng ngâm, thường cũng gợi trong lòng họ những tiếng rì rào thầm thỉ. Thơ Nguyễn Bính, là một hợp âm có thể gây ra trong lòng người Việt những tiếng sóng ngầm như thế:
Gió đưa xác lá về đường,
Thu sang nhuộm cả sầu thương một trời
Sầu thương quyện lấy hồn tôi
Đêm qua ngồi đọc thơ người xa xăm
Một nghìn năm, một vạn năm,
Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ
Tặng người gọi một giòng thơ,
Hay là giòng nước mắt thừa đêm qua.
(Dòng dư lệ)
Bởi âm nhạc trong thơ ông là những âm giai quen thuộc của lục bát, gióng lên đều đều như tiếng ru ạ ời, thêm tiếng định mệnh Kiều, tiếng than chinh phụ. Thơ Nguyễn Bính là hợp âm của nhiều thứ “tiếng” ấy, nó là một thứ âm giai ngũ cung trong lòng người Việt. Bởi thế, khi Nguyễn Bính nói lên tình yêu giữa những người không quen, giữa “tôi và nàng tuy không biết nhau”, tưởng như cái gì không thực nhưng vẫn làm tan nát lòng người. Bởi người ta không yêu Nguyễn Bính trong đời thực. Đời thực chỉ có sự giả dối và phản bội. Nguyễn Bính đã tạo ra đời mộng để yêu và được yêu. Những người không quen biết nhau ấy đã gặp nhau trong mộng. Họ là những giấc mơ bạc mệnh của nhau. Họ sống mơ nhưng yêu thật, yêu cái mệnh bạc, yêu những giấc mơ vắn số, yêu sự cô đơn của chính mình. Phần hồn của kẻ cô đơn, tự chẻ đôi chẻ ba ra cho có bạn và mỗi nửa riêng lẻ, mỗi phần xẻ ra ấy, tự cảm thấy không còn cô đơn nữa:
Những một mình em uống rượu hồng
(Xuân tha hương)
Hoặc:
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly
(Những người trên sân ga)
Những câu thơ lạc ra ngoài nỗi cô đơn thông thường của nhân thế, bởi cái tôi nơi đây đã tự chẻ đôi chẻ ba ra, tự luỹ thừa mình, tạo một cuộc sống tâm linh mới lạ, đớn đau và ngoạn mục mà dường như chỉ Nguyễn Bính nắm bắt được nghệ thuật biệt cách ấy: nghệ thuật tạo sầu Nguyễn Bính. Nghệ thuật tạo sầu của nhà thơ dựa trên tính chất bạc mệnh, yểu số của những giấc mơ, không chỉ nằm trong những bài thơ có chủ đề trực tiếp như Viếng hồn trinh nữ, Dòng dư lệ... mà còn bàng bạc ở cả những bài thơ vui như Cô hái mơ:
Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ

Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường còn xa
Mà ánh trời hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?

Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương

Cô hái mơ ơi!
Chẳng trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi
(Cô hái mơ)
Cả bài thơ là một giấc mơ, từ “ta” đến cô hái mơ, đến rừng mơ... may ra chỉ hai chữ Hương Sơn là thật. Giấc mơ trên động Hương Sơn. Cô hái mơ là một trong những bài thơ đầu tiên của Nguyễn Bính. Phạm Duy khi chọn bài thơ để phổ nhạc bài ca đầu tiên của đời mình đã có con mắt tinh đời: người nhạc sĩ trẻ tuổi ấy, đã nhìn thấy ở Cô hái mơ, không chỉ là một thực thể hữu hình, mà nàng còn là hiện thân của giấc mơ, hiện thân của sự sáng tạo, Cô hái mơ khai phóng những giấc mơ bạc mệnh của thi nhân, của nghệ sĩ.

Hết rủ rê lơi lả “hay cô ở lại về cùng ta”, đến tiếng gọi khẩn khoản tha thiết: “Cô hái mơ ơi!”, nàng cũng chẳng thèm trả lời, nàng “cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng”, một cách rất liêu trai, huyền mộng, bởi tất cả chỉ là cuộc độc thoại của nhà thơ với chính mình. Trong rừng mơ có ai đâu, ngoài kẻ có khả năng chẻ mình làm hai để thoát khỏi cô đơn, để tạo thêm một đời sống nội tâm khác, ngoài mình, luỹ thừa một mơ thành rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi.

Nghệ thuật tạo sầu của Nguyễn Bính phát xuất từ khả năng luỹ thừa vô cùng biến ảo và liêu trai ấy, từ cách vạn hoá tâm hồn ấy, Nguyễn Bính có những câu thơ tuyệt vời:
Hồn anh như hoa cỏ may.
Một chiều cả gió bám đầy áo em
(Hoa cỏ may)
Hoặc ngược lại, nhà thơ có thể hội tụ vạn tâm hồn trong một:
Cả kinh thành có những ai?
Cả kinh thành có một người mắt nhung
(Mắt nhung)
Nguyễn Bính dường như đã nắm trọn bí quyết làm xiêu đổ lòng người qua nghệ thuật phân kỳ và hội tụ cảm xúc và tâm linh.

*

Cô hàng xóm, đối với chúng ta, là hình ảnh gần gụi, thân quen. Nguyễn Bính có cô hàng xóm ấy thân quen ấy trong bài Xuân về:
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong
Nhưng nhà thơ còn có Người hàng xóm, một đối tượng khác. Rất khác. Bởi người khác cô. Người là người lạ, không quen. Ở cái quan hệ không quen không biết gì về nhau ấy, Nguyễn Bính đã viết nên bài thơ, có lẽ là một trong những bài thơ tình đẹp nhất của thế hệ ông. Đây là một bài thơ liên hoàn, không thể đọc câu trên mà không đọc tiếp câu dưới, lời lẽ hoàn toàn là ngôn ngữ hàng ngày, nhưng keo sơn gắn bó với nhau như một điệu nhạc, một âm giai ngũ cung bám vào hồn người Việt:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng thường sang bên này...
Bướm ơi, bướm hãy vào đây
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi
Chả bao giờ thấy nàng cười
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên
Mắt nàng đăm đắm trông lên
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn tự hỏi: hay tôi yêu nàng?
Không, từ ân ái nhỡ nhàng.
Tình tôi than lạnh tro tàn làm sao!
Tơ hong nàng chả cất vào
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.
Mấy hôm nay chẳng thấy nàng
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong
Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng? Không, quyết là không nhớ nàng!
Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa
Tầm tầm giời cứ đổ mưa
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm!
Cô đơn buồn lại thêm buồn
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?
Hôm nay mưa đã tạnh rồi
Tơ không hong nữa, bướm lười không sang
Bên hiên vẫn vắng bóng nàng
Rưng rưng tôi gục xuống bàn... rưng rưng...
Nhớ con bướm trắng lạ lùng
Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng
Hỡi ơi bướm trắng tơ vàng
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi
Đêm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng

Hồn trinh còn ở trần gian
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này
Bài thơ gói trọn tâm hồn và phong cách Nguyễn Bính: lung linh giữa mơ và thực. Người hàng xóm, nàng là mẫu người mệnh yểu, nàng có thật hay chỉ là giấc mơ nghệ sĩ, là sự chẻ đôi của tâm hồn? Là độc thoại của tình yêu, nàng là thơ thoại: nàng mang không gian và thời gian Nguyễn Bính, phản ảnh những cuộc tình chết yểu, những cuộc tình chưa ngỏ, chưa dám ngỏ, những cuộc tình bướm trắng trong mơ, những bất hạnh khổ đau trên con đường tìm hạnh phúc. Nàng giao liên giữa sự sống và cái chết, trong nỗi hoá kiếp Trang Chu. Nàng là mối hoài nghi: nhớ thương-thương nhớ? Nàng là sự phủ định lòng mình, là sự nói dối thành thật và thiêng liêng nhất của con người trước tình yêu và cái chết.


Thuỵ Khuê

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Bính mất ở Hà Nội là thông tin sai

Trước đây có người nói là NB mất ở HN, đó là do họ không có thông tin nên ghi bừa. Bây giờ thời đại thông tin bùng nổ, những người thân đã viết rõ về NB. Tôi đã viết rất rõ ở Wikipedia mục "Qua đời". Sao ở đây vẫn ghi là Nguyễn Bính mất ở Hà Nội.

15.00
Ảnh đại diện

Bổ sung thông tin

Cảm ơn bác, cháu đã bổ sung thông tin.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00

Trang trong tổng số 2 trang (11 bình luận)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối