Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Bính » Lỡ bước sang ngang (1940)
Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Bính » Nước giếng thơi (1957)
Đăng bởi Vanachi vào 01/06/2004 22:17, đã sửa 4 lần, lần cuối bởi karizebato vào 03/08/2009 09:33
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi TNGH ngày 13/04/2008 10:36
Có 1 người thích
Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Chỉ có quê hương mới tạo ra được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đề thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình yêu tuyệt vời của Nguyễn Bính”. Để bàn luận đến phong cách thơ bình dị, mộc mạc, đậm chất thôn quê của Nguyễn Bính, chúng ta không thể nào không nhắc đến Tương tư.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì theo một lối riêng của chính ông. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ảnh hưởng của thơ ca dân gian. Với Tương tư, Nguyễn Bính bắt đầu chủ đề tình yêu bằng một nỗi nhớ:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,Trong cuộc sống hàng ngày, tương tư là chỉ nỗi nhớ nhung đơn phương, thầm kín của người con người với đối tượng mà mình có cảm tình hoặc yêu thích. Vậy mới nói, tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nỗi nhớ, và tình yêu trong Tương tư cũng vậy. Cũng là nhớ, nhưng là “chín nhớ mười mong”, là nhớ thương khắc khoải. Cái nỗi nhớ da diết tưởng chừng như không đong đếm được được nhà thơ gói gọn trong bốn chữ “chín nhớ mười mong” nhưng lại càng khiến cho nỗi nhớ như trải rộng thêm ra, đầy thêm lên.
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giờiĐến đây, nỗi nhớ đã được chỉ đích danh. Đó là nỗi nhớ của tình yêu, nỗi nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Vì thế, đến cả cái chất yêu, cái chất nhớ cũng đượm tình quê, hồn quê bình dị mà chân thật. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã, nỗi nhớ mộc mạc mà lại đằm thắm, tâm tư. Nguyễn Bính thích lối cụ thể hoá cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Một người chín nhớ mười mong một người“Một người” đứng ở hai đầu câu thơ, tạo ra một khoảng cách, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy quả là hay, quả là độc đáo! Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất. Rằng trời cao kia cứ nắng cứ mưa, còn “tôi” đây dù nắng dù mưa vẫn một nỗi lòng yêu thương, nhớ nhung “nàng”.
Hai thôn chung lại một làngĐọc câu thơ, ta thấy tội nghiệp cho người trách hơn là người bị trách. Rõ ràng là nàng “Thôn Đông” đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng “Thôn Đoài”. Nhưng thấy người ở Thôn Đoài mười mong chín nhớ đến độ tự hờn giận vu vơ lại thấy thật tội nghiệp, đáng thương. Đáng thương nhất không phải tình cảm không được đáp lại mà là ngay cả mình thích người ta cũng không để người ta biết, không dám để người ta biết, chỉ biết lặng lẽ nhớ mong rồi chờ đợi vào hai chữ “vô tình”.
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại qua ngàyCách sử dụng láy chữ “ngày qua ngày lại...” như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết “mùa qua mùa lại...” mà phải viết “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đến vàng vọt cả “lá xanh” hay là héo úa cả tuổi xanh?
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giangHết trách móc lại chuyển sang kể lể, than thầm. Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có “ai” biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Những từ “ai” phiếm chỉ được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ “ai” gợi nhớ những từ “ai” trong ca dao:
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai.Than thầm, trách móc vì yêu, vì nhớ, vì tương tư. Tình cảm đơn phương vốn xưa nay chẳng mấy ai vui. Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng, sự chờ đợi khiến trái tim tình si thêm khao khát, lại nhuốm thê lương:
Bao giờ bến mới gặp đò,Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng bến và đò, hoa và bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như bến, hoa ám chỉ người con gái, biểu tượng động như đò, bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại “Bao giờ bến mới gặp đò”? Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch? Cho nên cứ trách “cớ sao bên ấy chẳng sang”, rồi “không sang là chẳng đường sang đã đành”, rồi “tình xa xôi”. Lại nữa “hoa khuê các” làm sao gặp “bướm giang hồ”? Rõ ràng là Nguyễn Bính đã thổi vào hoa – bướm của dân dã một chút tình lãng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa có cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút “khó hiểu của thời đại” như Hoài Thanh từng nói. Thực chất, sâu trong thâm tâm, dẫu trái tim tình si có yêu thương, nhớ nhung mãnh liệt nhưng vẫn cảm nhận được sự vô vọng, mộng tưởng xa xôi. Thế mới là tương tư, thế mới chỉ biết tương tư, thầm sầu, thầm trách trong đơn phương vô vọng.
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầuCâu thơ “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông” được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu – cau. Dẫu trầu cau là biểu tượng kết đôi, lứa đôi hạnh phúc nhưng dẫu có trầu, có trầu, có cau thì cũng chỉ là nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao “đỏ với nhau được” như ca dao:
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Miếng trầu với lại quả cauẤy thế mới lại càng khắc khoải không yên, càng tương tư day dứt. Tương tư là nỗi nhớ mong, mà nhớ mong thầm kín, đơn phương thì há chẳng phải là thất tình? Bởi thất tình mới cứ mãi vấn vướng không dứt, cứ buồn man mác mà chẳng biết ngỏ cùng ai, chỉ biết thốt lên dăm bảy câu thơ tỏ lòng cùng nỗi nhớ, có trách móc, hờn giân đấy, mà là “giận thì giận mà thương càng thương”.
Làm sao cho đỏ với nhau thì làm
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/01/2018 22:33
Nguyễn Bính (1918 -1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vịnh xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hoà), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm mồ côi mẹ, năm 10 tuổi phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khi mới 13 tuổi và sớm thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia công tác báo chí văn nghệ.
Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dẫn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế, Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp.
Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ -1944); sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958), Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo -1961), Người lái đò sông Vị (chèo – 1962)...
Bài thơ Tương tư được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.
Tâm trạng của người con trai trong bài thơ
Bản chất tâm lí của tâm trạng tương tư không chỉ có nhớ nhung đơn thuần mà là một phức hợp cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không xuôi chiều. Tâm trạng tương tư trong bài thơ diễn biến qua nhiều sắc thái cảm xúc chính như sau;
- Nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông- Băn khoăn, dỗi hờn:
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh, của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng- Than thở:
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày- Hờn trách:
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò ngang- Nôn nao, mơ tưởng:
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ biến mới gặp đò?- Ước vọng xa xôi:
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau
Nhà em có một giàn trầuSự phức tạp mang tính quy luật trong tâm lí khi yêu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ gỉầu không thôn nào?
Người lên ngựa kẻ chia bào“Nhuốm” nói đến sự biến đổi sắc màu mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tất. Sắc màu sự vật biến đổi chủ yếu ở bề mặt, bề ngoài. Còn “nhuộm” thể hiện sự hoàn tất. Thời gian dài đến mức đủ để cho màu này chuyển hẳn sang màu khác. Ngoài ra chữ “nhuộm” còn để ngỏ chủ thể. Nhuộm nhưng ai nhuộm? không hẳn là thời gian, cũng không phải là sự chuyển màu của lá: đó chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuốm thành héo úa. Kẻ tương tư và cây lá có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của kẻ tương tư, hay chính là hiện thân của nỗi tương tư. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư được. Đó chính là cái tinh tế, ý nhị trong lối thể hiện của Nguyễn Bính.
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Khung cảnh chốn quê trong bài thơNỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cành cây và chốn quê.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/01/2018 22:33
Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư lại thường là nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ, mà đôi khi cứ ngỡ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết, chẳng muốn biết rằng mình đang khổ sở vì tương tư. Thực tình, nhớ là hiện thân của yêu: một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu; một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Cho nên có kẻ nào yêu mà chẳng từng tương tư. Nguyễn Bính cũng thế! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải đến tận cùng những cung bậc tương tư, nói khác đi, là đã bị mọi cung bậc của tương tư giày vò đến khổ sở.
Yêu nhau, mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nhung nhớ. Nhớ nhung, thực chất, là khát khao được có nhau, gần nhau. Xa cách về không gian và thời gian chính là duyên cớ để tương tư. Vì thế mà trong bản chất tình cảm, tương tư là một khao khát, một nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian bằng tinh thần [1]. Không gian, thời gian vô cớ trở thành kẻ thù của những tình nhân bị xa cách. Và đây là những kẻ thù nghìn lần đáng ghét. Bởi trong nỗi tương tư, khoảng cách dù là ngắn cũng trở thành diệu vợi, nghìn trùng; một khoảnh khắc cũng thành đằng đẵng, thăm thẳm. Đôi khi chỉ tấc gang cũng thành vực thẳm. Thậm chí, với một tình nhân giàu dự cảm thì dầu chưa xảy ra xa cách, đã khắc khoải tương tư rồi:
- Vừa thoáng tiếng còi tàuTrong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những lứa đôi. Ngay những lời mở đầu đã vẽ ra một nỗi tương tư chan chứa cả cảnh sắc thôn làng:
Lòng đã Nam đã Bắc
- Nên cả lúc gần anh
Mà lòng em vẫn nhớ.
(Xuân Quỳnh)
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài đang gửi lòng say cô gái thôn Đông mà cuối cùng đã thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu quả không ngờ là hai miền không gian đang nhớ nhau. Điều này đâu phải vô cớ. Khi người ta tương tư, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn vào nỗi tương tư, không gian bao quanh cũng ngập tràn nhung nhớ. Người ta có nhìn bằng con mắt khách quan nữa đâu! Cảnh vật nhuốm màu tương tư cả rồi. Câu thứ hai đặc Nguyễn Bính! Ấy là giọng kể lể. Mội câu thơ được viết toàn bằng số từ! Không gian tương tư thật rõ. Câu bát có xu hướng kéo dài, nó càng dài hơn bởi giọng kể lể và chất đầy những số từ thậm xưng theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở một đầu câu thơ, thăm thẳm, vời vợi. Giữa họ là một khoảng không diệu vợi. Nỗi tương tư giăng mắc một nhịp cầu “chín nhớ, mười mong”, khởi lên từ đầu này và chấp chới, và mơ mòng tới đầu kia. Kế đó là một sự lí giải:
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng một căn bệnh. Tôi và Giời hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn toan tính hạ thấp cả giời trong so sánh đó nữa. “Gió mưa là bệnh của giời”, thì bệnh đó là môt thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra – một thứ bệnh nội sinh có sẵn! Còn “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” thì là căn bệnh mắc phải do “ngoại nhập”. Từ ngày yêu nàng, tôi mới mắc bệnh này. Coi tương tư là một thứ “bệnh”, mới kể lể được những khổ sở của cái tôi mang bệnh. Mà bệnh này đã mắc thì... phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái tôi hiện ra vừa như một tình nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng? Có phải thế là sự khôn ngoan... dễ thương?
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,Mở ra, “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”, tưởng chừng nghìn trùng cách trở. Đến đây, té ra sự cách trở đã hoàn toàn triệt tiêu: tuy hai thôn nhưng thực ra chỉ có một làng. Quái lạ thay là tâm lí tương tư! Khoảng cách có vậy mà khéo co giãn, biến hoá làm sao!
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,Ngày trước, tả mối tương tư Kim – Kiều, Nguyễn Du cũng thấy cái nghịch lí trữ tình của thời gian:
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Sầu đong càng lắc càng đầy,Một ngày thôi mà ngỡ đã ba thu. Thế cũng đã quá ư... trầm trọng! Dẫu sao, đó vẫn là nỗi tương tư được nói bằng giọng người trần thuật, ngoài cuộc. Còn lời thơ Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày rề rà chậm chạp trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy! “Ngày qua ngày lại qua ngày”, câu thơ di nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự lặp lại của vế kia theo lối trùng diệp. Chữ “lại” chứa đựng một ngán ngẩm. Vừa hi vọng, vừa như thất vọng. Mỗi ngày mới đến nhen lên một hi vọng, để đến cuối ngày, hi vọng tàn đi thành vô vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại rời rã của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Câu thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng cái cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc bạch tâm trạng cùng với một cái cây nào đó. Đây thì chẳng rõ là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư! Hay đó là cây tương tư?!). Kẻ tương tư và cái cây ấy có một mối tương giao kì lạ. Thời gian với kẻ tương tư chẳng vô hình. Nó có màu: ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua đổ lại một dấu vết nhỡn tiên trên vòm lá. Cái cây khác nào một cuốn lịch thiên nhiên. Hơn thế, cái cây là nhân chứng của mối tương tư, là tri kỉ câm lặng của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư hay là kẻ đồng nạn? – nạn nhân bỡi sự hững hờ của ai kia. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết cả rồi, vậy mà... Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon!
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
Người lên ngựa kẻ chia hào,Chữ “nhuốm” rất động. Nói được sự biến đổi đang diễn ra, chưa hoàn tất. Nó cũng trực tiếp! Dường như sắc màu này vốn từ cuộc chia li ở câu trên đã hắt sang câu dưới, đã phổ vào cảnh vật nên mới “nhuốm”. Nó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Còn chữ “nhuộm” của Nguyễn Bính gợi được thời gian. Bởi xem chừng nó tĩnh hơn. Quá trình diễn biến đã hoàn tất: lá xanh đã biến thành lá vàng rồi! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian đợi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nồi đủ đổ nhuộm một cây xanh thành hẳn cây lá vàng cả rồi! Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phần.
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Bảo rằng cách trở đò giang,Vẫn cái “luận điệu” dễ ghét ấy. Kể lể nông nỗi mình thì cũng một sự xa cách kia mà hoá muôn trùng, thãm thẳm. Còn ở đây thì “phủ định sạch trơn”: không hề có xa cách – khồng có cách trở đò giang, không phải không có đường, mà thậm chí còn gần lắm, chỉ có một đầu đình thôi. Tất cả chỉ do em hờ hững chứ chả có lí do khách quan gì! Người đâu có người mỗi lời lại một vận vào người ta thế có “khiếp” không! Nhưng không có luận điệu ấy thì làm sao có thể “quy chụp” người ta vô tình được! Sao những trái tim yêu lại có thể “ranh mãnh” một cách hồn nhiên đến thế! Vậy đấy, trong nỗi tương tư, trái tim thường cất lên những lời buộc tội thật dễ thương. Và khi “người ta” đã nhân danh nỗi khổ vì tương tư, thì nghe những lời buộc tội “khó chịu” đến đâu cũng đành mà “chịu khó” thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu thôi, chẳng phải thế sao?
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mù tình xa xôi...
Tương tư thức mấy đêm rồi,Hờn mát đến điều rồi thì lại khát khao đến độ:
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?Và cuối cùng thì khẳng định đinh ninh:
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầu,Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi! Thôn Đoài đã hẳn là nhớ thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lô gích thật... nguy hiểm!
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Thôn Đoài – Thôn ĐôngVà cuối cùng là:
Một người – Một người
Tôi – Nàng
Bên ấy – Bên này
Bến – Đò
Hoa Khuê Các – Bướm giang hồ
Nhà anh – Nhà em
Trầu – CauKết như thế thật khéo!
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/01/2018 22:34
Nguyễn Bính là một nhà thơ mới luôn tha thiết với những giá trị cổ xưa và tìm về với cội nguồn dân tộc để thổi vào những cung bậc cảm xúc của mình một hồn quê đậm đà, chân chất. Nếu như ở Huy Cận, chúng ta nhận thấy được sự ảnh hưởng của thể thơ lục bát cổ điển thì Nguyễn Bính lại là đại diện cho thể thơ lục bát dân gian mà bài thơ Tương tư là một minh chứng tiêu biểu. Với ngôn từ giản dị, hình ảnh mộc mạc, bài thơ Tương tư đã miêu tả tâm trạng của chàng trai quê với những cung bậc cảm xúc, những diễn biến tâm lý đa dạng nhưng cũng vô cùng chân thành và bình dị.
Tương tư là một cảm xúc, một căn bệnh khó tránh khỏi của những người đang yêu, đặc biệt là những buổi đầu, những khi chưa dám tỏ bày. Tương tư thường được hiểu là tâm trạng nhớ nhung, mong ngóng của đôi trai gái khi yêu, nhưng trong thực tế, diễn biến tâm trạng này chỉ xảy ra ở một phía mà cụ thể trong bài thơ này, đó là tâm trạng nhớ mong của chàng quê chất phác:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn ĐôngCũng như biết bao tâm hồn đã và đang tương tư khác, nỗi tương tư của chàng trai cũng được bắt đầu bằng sự mong nhớ. Nhưng tại sao ở đây lại là “thôn Đoài nhớ thôn Đông” mà không phải là ai đó nhớ một ai đó? Đơn giản bởi nỗi tương tư ấy đã thấm vào cả cảnh vật và lan toả khắp không gian, cũng như đại thi hào Nguyễn Du đã nhận xét: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Việc sử dụng hình ảnh hai thôn để diễn tả thay cho hai cá thể đang yêu của Nguyễn Bính quả thật rất tinh tế, nó có thể hiện được một cái gì đó đậm đà thắm thiết qua tiếng “nhớ” mà cũng có gì đó e ấp, thẹn thùng chưa dám nói ra. Thêm vào đó, điệp từ “một người” được ngăn cách bằng “chín nhớ mười mong” vừa như một nhịp cầu mà cũng vừa như tấm bình phong ngăn trở của mối tình đậm đà buổi sơ khai này vậy. Từ đó, Nguyễn Bính đi đến một kết luận, một sự đúc kết sâu sắc:
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,Đối với những ai đã, đang và mong muốn được dấn thân vào biển yêu thương ngọt ngào xen lẫn những khổ đau thì tương tư là căn bệnh không thể nào tránh khỏi. Nó làm cho những tâm hồn yêu đương phải mệt mỏi, dằn vặt nhưng cũng chính vì thế mà tình yêu trở nên nhiều màu sắc hơn.
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,Hai câu đầu như có một ý gì đó tự hỏi mà cũng có ý hờn trách nhẹ nhàng. Gần thế cơ mà, nhưng sao “bên ấy” chẳng sang chơi “bên này”, để cho bên này phải đợi mong mỏi mòn, phải “ra ngẩn vào ngơ”, phải tương tư khổ sở thế này, “Bên ấy” có biết cho “bên này” chăng? Sao cứ còn hờ hững mãi? “Ngày qua ngày lại qua ngày”, thời gian cứ thế trôi kéo theo sự nhớ mong dai dẳng trong tâm hồn của “bên này”. Lâu lắm rồi, chờ đợi đã bao ngày rồi, đến nỗi “lá xanh” kia cũng đã “nhuộm” vàng rồi “bên ấy” à! Đối với những tâm hồn đang yêu đương cháy bỏng thì một ngày hay thậm chí một giờ một khắc không gặp người mình yêu cũng dài như mấy năm vậy. Sự vận động của thời gian được tác giả miêu tả bằng điệp ngữ “qua ngày” cùng tự “lại” ở đây đã cụ thể hoá thời gian, diễn tả được bước đi chậm chạp, nặng nề của thời gian dưới cái nhìn của một tâm trạng nóng lòng chờ đợi. Bên cạnh đó, bằng việc sử dụng hai sắc màu chủ đạo “xanh” và “vàng” cùng động từ “nhuộm” ở đây không chỉ diễn tả được sự vận động trong một quãng đường khá dài của thời gian mà còn cho thấy được tâm trạng héo mòn, khô úa vì đợi chờ của nhân vật trữ tình.
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giangChỉ cách có “một đầu đình”, “có xa xôi mấy mà tình xa xôi”? Lúc bấy giờ, chúng ta có thể cảm nhận được mộ sự hờn trách nhẹ nhàng, cái lối hờn mát trách yêu của một tâm hồn nhớ mong cháy bỏng. Vì rằng đường xa khó khăn nên em không sang hay em không muốn sang. Phải chăng ở bên thôn Đông ấy em có tìm được một niềm vui nào đó to lớn hơn, tìm được một niềm vui nào đó to lớn hơn, tìm được một niềm hạnh phúc nào đó ấm áp hơn nên em đã quên mất một cây si, cây tương tư đang chờ em ở thôn Đoài mất rồi.
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Tương tư thức mấy đêm rồiTâm trạng chàng trai lúc bấy giờ dường như có gì đó bối rối và hụt hẫng. Một ngày không gặp thì nhớ mong, hai ngày không gặp thì bồn chồn, lo lắng, ba ngày không gặp thì hờn giận, trách yêu, rồi nhiều nhiều ngày nữa không gặp thì nỗi tương tư giờ đây đã chuyển sang một cung bậc cảm xúc cao hơn, phức tạp hơn: đó là sự buồn bã, không ăn, không ngủ, biểu hiện của một tâm hồn bị nỗi nhớ mong dày vò, dằn vặt. Biết khi nào đây? Khi nào “bến mới gặp đò”, “hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau”. Đến đây, hệ thống những hình ảnh được Nguyễn Bính sử dụng đã ngày một đa dạng và phong phú hơn cũng như tâm trạng chàng trai đang diễn biến ngày càng phức tạp và đa cung bậc hơn. Điểm lại tâm trạng ấy, ta có thể thấy rõ ràng một sự tăng tiến trong cảm xúc của nhân vật trữ tình: từ nhớ mong đến chờ đợi, bồn chồn rồi đến hờn trách và tự vấn bản thân để từ đó nâng lên một bậc nữa trong cảm xúc. Cũng là sự mong muốn nhưng đã không còn chỉ là nỗi mong muốn được gặp nhau mà giờ đây, chàng trai muốn được gắn kết, được giao hoà và được kết tóc se duyên cùng người “bên ấy” ở “thôn Đông”.
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Nhà em có một giàn giầuCách xưng hô của chàng trai ở đây cũng đã thay đổi, không còn là “thôn Đoài”, “thôn Đông” hay “bên ấy”, “bên này”, cũng không còn là “bến” – “đò” hay “hoa” – “bướm” mà đã trở thành “anh” và “em”. Điều đó thể hiện một khát khao gắn kết mãnh liệt, muốn cùng người mình yêu thương sống trọn đời trọn kiếp để tạo nên một cái kết có hậu và đẹp đẽ của mối duyên quê, tình yêu chất phác, đậm đà.
Nhà anh có một hàng cau liên phòng