Tiều rằng: Phép trị trước thai,
Bao nhiêu chứng nhiệt, dùng bài thuốc lương.
Đến như chứng lạnh không thường,
2270. Cấm dùng thuốc nóng, còn phương pháp gì?
Môn rằng: Muốn rộng chước y,
Bệnh thường, bệnh biến, phải suy cho tường.
Thai tiền hợp dụng thuốc lương,
Ấy là chỗ luận bệnh thường phép y.
2275. Đến như bệnh biến chứng kỳ,
Quen theo thường trị, lấy gì làm công?
Như đau lạnh thấu tử cung,
Can khương, Quế, Phụ chẳng dùng sao an?
Như đau máu chứa bàng quang,
2280. Phương nào khỏi hốt Đại hoàng, Đào nhân?
Bệnh thời bệnh chịu đã ưng,
Chỗ đau có cớ, nào từng phạm thai?
Xưa rằng y biến thật tài,
Ứng theo máy trị, nhiều loài, nhiều phương.
2285. Coi thiên “thai dựng biến thường”
Việc người chữa nghén lắm đường bất kinh.
Có người gọi chứng “ám kinh”,
Tháng không nhơ uế mà mình nên thai.
Có người gọi chứng “cấu thai”,
2290. Nghén rồi, kinh nguyệt xầy xầy máu ra.
Máu ra mà nghén chẳng sa,
Gọi rằng “thai lậu”, thật là huyết dư.
Có người nghén một năm dư,
Hoặc mười bảy tám tháng chừ mới sinh.
2295. Gọi “thai bất trưởng” là danh,
Bởi người khí huyết trong mình chẳng sung.
Gặp thai mấy chứng lạ lùng,
Khuyên người chẩn mạch cho ròng, khỏi sai.
Lại còn chứng gọi “quỷ thai”,
2300. “Trưng hà”, “bĩ khối”, cũng loài bụng to,
Nhớt nhau hơi hết, giả đò giống thai.
Máu hư chứa đọng ngày dài,
Gọi rằng “súc huyết”, giống thai một dường.
2305. Hỡi ôi bệnh biến khôn lường,
Dị thường trong lại dị thường biết bao,
Kinh rằng bảy bảy tuổi cao,
Dứt đường thiên quý, lẽ nào có thai.
Vợ người Tịnh Phổ là ai,
2310. Mình đà sáu chục tuổi ngoài, còn mang.
Kinh rằng hai bảy tuổi nàng,
Thông thường thiên quý mới toan gả chồng.
Tô Khanh có gái má hồng,
Mới mười hai tuổi lấy chồng liền thai.
2315. Coi hai dấu sử biên ngoài,
Nghiệm vào sách thuốc, khá nài sao ôi!
Học thời thông biến mà thôi,
Biến không chừng hiện, nào rồi liệu lương.
Luận người gặp biến cứ thường,
2320. Bệnh người gặp biến cứ thường sao xong.
Muốn cho lớn mật, nhỏ lòng,
Gặp cơn y biến nên công mới tài.
Tiều rằng: Chẩn mạch trước thai,
Chia tay hữu gái, tả trai đã đành.
2325. Tả di hoạt tật trai sinh,
Hữu di hoạt tật gái sinh phải rồi.
Còn e người nghén thai đôi,
Hai tay sáu bộ, chủ coi mạch gì?
Môn rằng: Ba bộ mạch đi,
2330. Âm dương hai chữ, thịnh suy khác hình.
Gốc trong tạng phủ, năm hành,
Sánh duyên chồng vợ, tỏ tình mẹ con.
An ngôi chồng vợ, mẹ con,
“Tung, hoành, thuận, nghịch” xây còn trong tay.
2335. Bộ âm mà mạch dương vầy,
Chồng thừa ngôi vợ, lẽ này rằng “tung”
Lại như vợ đến ngôi chồng,
Bộ dương mà mạch âm thông, rằng “hoành”.
Con thừa ngôi mẹ nghịch danh,
2340. Mẹ thừa con ấy thuận tình ở nhau.
Lặng lòng theo mạch xét cầu,
Máy âm dương nhóm, biết đầu gái trai.
Ba dương mạch thịnh, con trai,
Ba âm mạch thịnh, gái thai hẳn hòi.
2345. Tả đới tung, ấy trai đôi,
Hữu đới hoành ấy gái đôi hơi hoà.
Tả dương mạch nghịch, trai ba,
Hữu âm mạch thuận, gái ba nên hình.
Muốn coi tạo hoá máy linh,
2350. Đọc lời bí quyết Mạch kinh truyền lòng.

Chẩn nhâm thần mạch quyết
(Bí quyết xem mạch người có thai)
Dịch nghĩa:
Can chủ huyết chừ, phế chủ khí.
Huyết là vinh chừ, khí là vệ,
Âm dương đôi lứa chẳng so le,
Hai tạng thông hoà cùng một lệ,
Huyết suy, khí vượng quyết không thai.
Huyết vượng, khí suy chắc có thai,
Thốn Vi, Quan Hoạt, Xích hơi Sác,
Đi lại trơn tru, hoặc tước trác:
Ấy mạch con trẻ hiện hình rồi,
Mới vài tháng nên chưa biết thôi!
Tả mau là trai, hữu là gái,
Trơn tru thông nhau, mau đi, lại
Quan bộ hai tay Hoạt cùng Đại,
Có thai nhưng có cũng là mới.
Thấy hình con trẻ, hai là phải...
Tay tả thấy tung hai đứa trai:
Tay hữu thấy hoành gái một đôi;
Tay trái mạch thuận, ba gái rồi...
Thốn, Quan, Xích, hai bên đều nhau:
Một trai, một gái, có sai đâu.
Tay trái Trầm Thực, trai chắc hẳn...
Tay phải Phù Thực, gái rõ màu.
Dương mạch là trai, âm mạch gái,
Rõ ràng dưới ngón nhớ kỹ lấy,
Ba bộ Trầm đều chẳng còn ngờ,
Xích bộ không dứt, có thai đấy!
Mạch thê thừa phu gọi là hoành,
Mạch phu thừa thê tung đã rành,
Mạch tử thừa mẫu thực nghịch khí,
Mạch mẫu thừa tử mới thuận tình.
Huyền, Khẩn, Lao, Hoạt, Cường yên ổn,
Trầm, Tế và Vi, chết đã rành.