江雨初睛

淡掃長天色,
猶聞溜水聲。
浮西千樹出,
值北眾風生。

 

Giang vũ sơ tình

Đạm tảo trường thiên sắc,
Do văn lưu thuỷ thanh.
Phù tây thiên thụ xuất,
Trị bắc chúng phong sinh.

 

Dịch nghĩa

Trời đất đã lợt dần như quét
Những tiếng nước chảy còn nghe ồ ồ bên tai
Ở bên trời tây rừng đâu mọc ra,
Ngoài phía bắc, núi đâu ùn lên?


Trong bốn câu thơ này, với một ngọn bút thần, tác giả đã vẽ ra một cảnh của một khúc sông lạ sau lúc tạnh mưa. Vì mưa tạnh trên sông nên nước chảy còn nghe tiếng và là một khúc sông lạ nên không biết xưa nay gần sông vẫn có núi, có rừng lại tưởng rằng núi rừng mới mọc ra sau lúc mưa tan. Các chữ “xuất” và “sinh” đã đem đến cho rừng núi một vẻ linh động riêng.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Đề

Trời đất màu lợt cả
Nước chảy tiếng nghe còn.
Nghìn cội rừng tây mọc
Trăm hòn núi bắc ùn!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Trời xanh lơ như vừa quét dọn
Nước còn nghe sóng gợn đâu đây
Cây nhiều rừng ở phía tây
Còn nơi phía bắc gió bay ào ào.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Đất trời như đã lợt dần,
Còn nghe tiếng nước chảy rần bên tai.
Trời tây đâu mọc rừng mai,
Ngay về phía bắc, gió đầy nổi lên?

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Đất trời sắc đã lợt dần
Lại nghe nước chảy rì rầm bên tai
Ngàn cây ló phía trời tây
Hiu hiu một ngọn gió may lại về

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời