乙丑年九日登高併探孝兒之墓于順理山分

明月中秋懶泛觴,
登高有約又重陽。
青山與我題新句,
前路無人插晚香。
蒼狗白雲都造化,
長林巨壑幾桑滄。
狂歌浪笑寧違俗,
忘卻茱萸未滿囊。

 

Ất Sửu niên cửu nhật đăng cao tính thám hiếu nhi chi mộ vu Thuận Lý sơn phân

Minh nguyệt trung thu lãn phiếm thương,
Đăng cao hữu ước hựu trùng dương.
Thanh sơn dữ ngã đề tân cú,
Tiền lộ vô nhân sáp vãn hương.
Thương cẩu bạch vân đô tạo hoá,
Trường lâm cự hác kỷ tang thương.
Cuồng ca lãng tiếu ninh vi tục,
Vong khước thù du vị mãn nang.

 

Dịch nghĩa

Trăng trung thu vằng vặc nhưng lại lười chèo thuyền thơ
Cùng hẹn nhau leo núi chơi vào dịp lễ trùng dương
Ta làm được thơ vì phong cảnh núi non xanh biếc
Đốt nén hương bên con đường trước mắt thâm u
Cảnh mây trắng chó xanh đều do tạo hoá
Rừng rậm ao sâu mấy độ tang thương
Cứ hát lớn cười vang dù trái với thói đời cũng mặc
Quên rằng cỏ thuốc thù du chưa hái đầy giỏ


Lời tự: “Án sát Quảng Bình” 按察廣平 (Thơ làm trong thời kỳ làm án sát Quảng Bình).

Ất Sửu tức năm 1925.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Hữu Vinh

Biếng dạo thuyền khi thu chớm sang
Chơi non nay hẹn tiết trùng dương
Núi xanh biêng biếc gieo vần mới
Đường tối âm u đốt nén hương
Ngàn đoá mây ngàn hình tạo hoá
Rừng cao ao rộng cảnh tang thương
Cuồng ca hát lớn lòng không ngại
Cỏ thuốc quên tìm cứ hát vang

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Trung thu trăng sáng biếng thuyền thơ,
Cùng hẹn trùng dương leo núi chơi.
Vì cảnh viết thơ xanh núi biếc,
Bên đường hương đốt trước người mờ.
Chó xanh mây trắng đều con tạo,
Rừng rậm ao sâu mấy rối bời.
Quên thuốc thù du chưa lấp giỏ,
Cứ ca vang hát thói cười đời.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời