詠朱文安

擎節清修氣擔當,
欲將隻手挽頹陽。
雷霆不挫孤忠憤,
魑魅猶驚七斬章。
勁節已憑天地白,
高風獨對水山長。
林泉舊約今何在,
文廟唯餘姓字香。

 

Vịnh Chu Văn An

Kình tiết thanh tu khí đảm đương,
Dục tương chích thủ vãn đồi dương.
Lôi đình bất toả cô trung phẫn,
Si mị do kinh thất trảm chương.
Kính tiết dĩ bằng thiên địa bạch,
Cao phong độc đối thuỷ sơn trường.
Lâm tuyền cựu ước kim hà tại,
Văn Miếu duy dư tính tự hương.

 

Dịch nghĩa

Là người giương cao thiết tháo, giữ mình trong sạch và có khí phách dám đảm đương,
Những muốn một tay kéo lại mặt trời sắp lặn.
Sấm sét không át được sự phẫn nộ của bậc cô trung,
Ma quỷ còn khiếp sợ tờ sớ xin “chém bảy” người gian.
Khí tiết mạnh mẽ đã sáng tỏ cùng với đất trời,
Phong cách cao thượng dài lâu cùng sông núi.
Chín suối, rừng cũ ở ẩn theo nguyện ước nay đâu rồi?
Chỉ có tên họ thơm lừng nơi Văn Miếu.


Tuyển từ Yên Đổ tiến sĩ thi tập (VHv.1864).

Chu Văn An người làng Thanh Đàm, huyện Thanh Trì, Hà Nội, là một nhà giáo có tài cao đức trọng, đào tạo ra nhiều người tài. Triều Trần Minh Tông, ông làm tu nghiệp Quốc Tử Giám. Đời Dụ Tông, vua chơi bời trễ nải chính sự, ông can không được bèn dâng Thất trảm sớ. Không thấy vua trả lời, ông treo mũ từ quan về ẩn ở Chí Linh. Nhiều lần vua lại vời ra làm quan, ông đều từ chối.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Tiết tháo, can trường, dám đảm đương,
Một tay muốn kéo lại vầng dương.
Quỷ ma khiếp sợ tờ xin trảm,
Sấm sét không sờn dạ phẫn trung.
Khí mạnh rạng ngời cùng đất nước,
Tài cao còn mãi với non sông.
Suối rừng ước cũ nay đâu thấy?
Văn Miếu mãi còn lưu tiếng thơm.

tửu tận tình do tại
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Thanh cao, tiết tháo, dạ can trường,
Quyết chí ra tay kéo bóng dương.
Sấm sét chưa bằng lời nghĩa khí,
Quỉ ma còn sợ tấm cô trung.
Khí hào tỏ rõ ngời non nước,
Gương sáng còn lưu rạng núi sông.
Ước cũ núi rừng nay chẳng thấy,
Nghìn thu Văn Miếu tiếng thơm lừng.

15.00
Trả lời