涿州題壁

遠捧芝綸萬里來,
煙雲繞向馬頭開。
客囊衣在縫仍密,
帶得平安兩字回。

 

Trác Châu đề bích

Viễn bổng chi luân vạn lý lai,
Yên vân nhiễu hướng mã đầu khai.
Khách nang y tại phùng nhưng mật,
Đới đắc bình an lưỡng tự hồi.

 

Dịch nghĩa

Từ xa muôn dặm vâng mang đồ quý, chiếu thư đến,
Trước đầu ngựa, mây khói còn vẩn quanh mở ra.
Túi và áo khách còn phải vá, nhưng kín đáo,
Mang về được trọn hai chữ bình an.


Trác Châu là địa danh ở Trung Quốc, nằm về phía nam Bắc Kinh. Có lẽ tác giả làm thơ trên đường đi sứ về, nghỉ lại ở Trác Châu.

Bài thơ được chép trong Vãn tình di thi hối 晚晴簃詩匯 của Từ Thế Xương nhà Thanh.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Đức Toàn (II)

Chiếu thư đồ quí đường dài,
Khói mây đầu ngựa rẽ hai bên đường.
Túi áo vá, kín lạ thường,
Bình an hai chữ chắc mang trở về.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Chiếu thư đồ quý đến từ xa,
Đầu ngựa khói mây hướng mở ra.
Túi áo khách còn đây phải vá,
Mang về được trọn chữ an hoà.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời