Thơ » Việt Nam » Tây Sơn » Nguyễn Huy Lượng
Lạ thay cảnh Tây Hồ;
Lạ thay cảnh Tây Hồ.
Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi;
Nghe rằng đây đá mọc một gò.
Trước Bạch Hồ vào ở đó làm hang, long vương trở nên vùng đại trạch;
Sau Kim Ngưu do vào đây hoá vực, Cao vương đào chặn mạch hoàng đô.
Tiếng nghe gọi Dâm Đàm, Lãng Bạc;
Cảnh ngó in tinh chử, băng hồ.
Sắc dờn dờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo;
Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò.
Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc;
Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa.
Áng đất phơi mỏ phượng còn in, kẻ rằng đài thượng nguyệt;
Vũng nước hút hàm rồng chẳng cạn, người gọi trản trung tô.
Toà thạch tháp nọ nơi tiên để báu;
Chốn thổ đôi kia chỗ khách chôn bùa.
Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ;
Quán Chân Võ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa.
Kề bến nọ quán Thiên Niên lớp lớp;
Cách ngàn kia ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô.
Toà kim liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn;
Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhận sẵn thú Nghi Vu.
Dấu Bố Cái rêu in nền phủ;
Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa.
Trông mơ màng dường đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu chích chích;
Nghe phảng phất ngỡ động đào mái nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o.
Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút;
Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ỳ ồ.
Rập rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm;
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn hé cửa tò vò.
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng;
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm;
Sen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò.
Cầm ve gảy lầu thư ánh ỏi;
Mõ cuốc khua án kệ rì rù.
Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái trúc;
Non Phục Tượng lúc vầng trăng hé nửa, tiếng hàn châm nghe cách dải sông Tô.
Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn;
Khách thâu nhàn lai láng từng khu.
Mảnh áo tơi lớp xớp trong mưa, ca thanh thảo quyến đàn trâu ngã Nịnh;
Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc thương lang đưa gánh củi chàng Chu.
Vầy cuộc ẩn mọi nghề chẳng thiếu;
Mượn thú vui bốn bạn gồm no.
Cảnh Khán Sơn chưa gác cuộc cờ, lòng thơ đã bồi hồi ban lãnh thỏ;
Làng Vọng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô.
Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát;
Người Hi Hoàng song bắc gáy phi pho.
Bến giặt tơ người vốc nước còn khuya, gương thiềm đựng trong tay lóng lánh;
Vườn hái nhị kẻ dày sương hãy sớm, túi xạ rơi dưới gót thơm tho.
Ngang thành thị ghé yên hà một thú;
Dọc phố phường tung phong nguyệt hai kho.
Gió hiu hiu dòng Nhị Thuỷ đưa lên, lồng hơi mát tới chùm hoa khóm trúc;
Trăng vằng vặc mái Tam Sơn rọi xuống, đớp bóng trong từng lũ cá đàn cò.
Phong cảnh cũ nhiều nơi thắng lãm;
Triều đại xưa mấy lớp thanh ngu.
Tựa bóng hoa đặt quán Quan ngư kìa đời Long Khánh;
Đè mặt sóng đem đường Dụ tượng nọ thuở Kiền Phù.
Trải Trần trước đã nhiều phen xe ngựa;
Tới Lê sau càng lắm độ tán dù.
Trộm nhớ thiên bát vịnh du hồ, trong tỉ hứng cũng ngụ lời quy phúng;
Lại nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm dường thoả ý giao phu.
Toà đá nọ hãi ghi câu canh hoạ;
Dòng nước kia dường nổi chén tạc thù.
Năm sau từ nổi bụi tiêu tường, ba thước nước khôn cầm màu hiệu khiết;
Buổi ấy cũng góp phần tang hải, sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khô.
Hình cây đá mưa trôi gió giạt;
Sắc hoa chim mây vẩn sương mù.
Chốn trì đàm làm bợn vẻ thanh quang, xuôi ngược những vẫy đuôi khoa đẩu;
Nơi phạm vũ để che màu sảng lãng, dọc ngang trao mắc võng tri thù.
Hương cổ miếu đôi chòm lạnh lẽo;
Đèn viễn thôn mấy ngọn tù mù.
Kênh đâu đâu chảy đến trung sa. lầu túc điểu gió còn sớm quạt;
Sen chốn chốn đã bay về Tây vực, vũng du ngư nguyệt hãy tối mò.
Kêu trị loạn đau lòng con Đỗ Vũ;
Gọi công tư mỏi miệng cái hà mô.
Lũ cày mây lần tưởng bóng nghê, thơ thất nguyệt thở than cùng mục thụ;
Khách điếu nguyệt biếng tìm tăm cá, chữ nam mô bàn bạc với tiều phu.
Nghe xóm nọ rù rì ve nhặng;
Ngắm ghềnh kia thấp thoáng trai cò.
Thú cao lưu chếch mác thế cờ, người nhạo thuỷ ôm cầm khi rạng quế;
Màu yên cảnh bâng khuâng hồn rượu, khách đăng đài gác bút buổi bay ngô.
Chiều phong vị xem dường quạnh quẽ;
Dấu đồ thư ngắm hãy mơ hồ.
Dưới cầu vồng nước chảy mênh mông, đường xưa đua ngựa;
Trên thành trĩ đá xây chớm chởm, bến cũ gọi đò.
Trước cố cung treo nửa mảnh gương loan, vầng trăng he hé;
Sau cổ tự gởi mấy phong da ngựa, đám cỏ lù rù.
Lớp canh dịch người xưa man mác;
Vẻ tiêu lương cảnh cũ thẹn thò.
Áng phồn hoa vì cảnh muốn phô người, người phải khi vật đổi sao rời, cảnh phải chiều người buổi ấy;
Trời thanh lãng có người còn mến cảnh, cảnh có sẵn nước trong trăng sáng, người nên phụ cảnh này ru.
Vừng trăng nọ buổi tròn buổi khuyết;
Ngọn nước kia nơi hoắm nơi nhô.
Tới Mậu Thân từ rỡ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch;
Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức chiêm nhu.
Vũng trì chiểu nước dần dần lặng;
Nơi đình đài hoa phơi phới đua.
Chốn bảy cây còn mấy gốc lăng vân, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão;
Nơi một bến đã đông đoàn hí thuỷ, tới uyên ương đều thoả tính trầm phù.
Vẻ hoa thạch châu thêu gấm dệt;
Tiếng trùng cầm ngọc gõ vàng khua.
Bãi cỏ non trâu thả ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi;
Làn nước phẳng kình chìm ngạc lặn, ao Hán nào mấy trẻ reo hò.
Mặt đất đùn này thóc này rau, rầu lòng Cô Trúc;
Mặt nước chảy nọ dòng nọ bến, mặc chí Sào Do.
Cây quán kia còn đứng dậy thần uy, đoàn mán tới dám khoe lời tây hữu;
Sen chùa nọ lại bay về phật cảnh, lũ Ngô về từng niệm chữ nam mô.
Dấu linh dị rành rành vẫn sáng;
Mạch hậu nhân dằng dặc bao rò.
Mặt thành xưa đem lại thế kim thang, đất xây phẳng lặng;
Cánh hàn cũ sửa ra hình chỉ trụ, đá xếp xô bồ.
Ghé vùng danh nẻo lợi bấy lâu, cảnh tuy rằng nhỏ;
Song nước trí non nhân mấy chốn, cảnh đã chi thua.
Trải mấy thu từng dựa bóng tàn xanh, thâu cảnh đã vào trong vũ trụ;
Song ngàn dặm còn xa rời bệ tía, góp cảnh còn gọi chốn biên ngu.
Tuy thú vị đã dãi bày ra đó;
Song thanh dung còn trang điểm lại cho.
Nay mừng:
Trời phù chính thống;
Đất mở hoành mô.
Quyền tạo hoá tóm vào trong động tác;
Khí kiền khôn vận lại trước đô du.
Nền hoàng thành đặt vững long biên, ngôi Bắc cực muôn phương đều củng hướng;
Nền bắc trạch xây kề ngưu chử, cảnh Tây Hồ trăm thức lại phương phu.
Chòm hủ thảo chưa qua tuần đom đóm;
Áng tường vân đà cách độ tua rua.
Ngắm nguyệt chiêm từ cấn tượng bốn hào, ống âm dương đà quét bụi;
Xem tuế luật đến di tân bảy tấc, lò thiên địa mới bay tro.
Cơ vãng phục lạnh thôi lại ấm;
Lẽ doanh thâu bớt đã lại bù.
Dưới lục âm vừa sinh khí nhất dương, vạn phẩm đã nhờ ơn khôn tạo;
Trên cửu đạo lại tề ngôi thất chính, bốn mùa đều theo hướng đẩu khu.
Hương khâm kính xâm miền hạo đãng;
Rượu cung càn thấm cõi linh u.
Áng năm mây bày ngọc bạch đôi hàng, thảo mộc hãy ca công Thang, Vũ;
Vang chín bệ nổi tiêu thiều mấy khúc, điểu thú đều vũ đức Đường, Ngu.
Vẻ hoa lẫn dấu cờ năm thức;
Mặt nước in bóng giáo ba ngù.
Trước huân phong phảng phất cung đàn, làn thâm thuỷ muốn vái lên ngũ bái;.
Dưới ngọ nhật vang lừng tiếng trúc, hình viễn sơn mong rạp xuống tam hô.
Lễ nhạc ấy nghìn thu ít thấy;
Phong cảnh này mấy thuở nào so.
Trên dưới đều rồng mây các nước phải duyên, giọt vũ lộ tưới đôi hàng uyên lộ;
Gần xa cũng cõi bờ non sông một mối, tấm đan thành dung khắp lũ nghiêu sò.
Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo;
Áng tường quang tuôn trước ngọn huyền lô.
Rặng đầu ghềnh người mượn chữ vu viên, răn loài hồng nhạn;
Ca cuối vũng kẻ ngâm câu tại chử, nhủ lũ ê phù.
Lời ca ngợi tưởng ngồi trong Chu nhã;
Điệu ngâm nga nghe đứng giữa Nghiêu cù.
Ngẫm nay đà vui thú tạc canh, đành chốn chốn cũng ca đồng vũ tẩu;
Nhớ trước đã thoả loài động thực, hẳn đâu đâu đều bặt quỷ im hồ.
Nay lệnh tiết đã tin điềm thái lãng;
Xin thánh nhân càng ghín chữ dự du.
Ngọn nguồn tuôn dàn rụa mái kia ghềnh, đèn chiếu thuỷ chia dòng Kinh Vị;
Chòm cỏ mọc tần vần bên nọ miếu, trống thôi hoa rẽ khóm huân do.
Nhận giá sắc xét dân phong cần noạ;
Ngắm phong quang soi vật tính thanh ô.
Chốn điểu đài xem cá nhảy chim bay, thâu sĩ lộ nơi thông nơi trệ;
Miền thôn ổ lắng chim kêu gà gáy, lượng nhân gian nơi háo nơi trù.
Tình u uẩn khắp bày trong thị thính;
Hiệu trị bình đành sắp dưới tề tu.
Nơi mạch kia dân tựa ấy làm trời, hang chuột ẩn há chừa nơi cỏ khuất;
Bờ liễu nọ kẻ xây đà vững đất, lỗ kiến đùn khôn chuyển buổi nguồn xô.
Đem phong cảnh lại một bầu chi nhỏ;
Mở thái bình ra bốn bể mới to.
Tôi nay:
Hổ mình thiển lận;
Dại trí thô sơ.
Dư một kỷ yên bề hu lịch;
Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du.
Trước phượng đàn đứng sánh hàng loan, trông hồ cảnh tiến một chương ly ngữ;
Bên ngự đạo ngửa trông vầng nhật, nổi thanh sơn mừng muôn kỷ dao đồ.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 11/01/2008 10:21
Có 1 người thích
誦西湖賦
邏処景西湖;
邏処景西湖。
謭仌挆坦勚佂憥;
牐浪低廏仺沒潄。
苉白猢侟於刬乄缊,龍王阻戼潂大澤;
畱金牛由侟低化域,高王掏振脈皇都。
曢牐噲淫潭焔泊;
景噺印星渚冰湖。
色寅寅染式藍鈎,肦洞碧奛瑨匇丠丠;
形歰歰扝怶勾昰,想暈銀淶笹摼岺岺。
餘懯畝搩俼吝色;
钘夝边花礊蜫炞。
盎坦嘑惣鳳群印,丗浪臺上月;
蠺搩吸唅纅拯喼,圤噲盞中酥。
座石塔怒厼仙底宝;
准土堆箕謩客畕符。
笌穆郎香帞拯移,壦歄法群綋功扒虎;
縆真武顮湄儍轉,旘詟煶群底跡緘踨。
崘揼怒縆千年妉妉;
隔岸箕涼万保乯譍。
座金蓮夲奛味香,廚鎮国想印潂靜範;
行古樹闧剹翚綠,場奉天認產趣沂圩。
玌布丐繤印咜府;
境堏釘花崜翓廚。
鐭濽忙羕頂鷲厼箕,亼組鵲疜廊叫隻隻;
牐彷彿肦洞桃渉怒,亖曢鐗瑇寨漑嗚嗚。
炉石塊煵槩翝怾;
涼日招夲迭吢籶。
拉垪疜桚蝊鈡,船商客唉氈帆徸徸;
声領頭湖股馭,塔高僧群螙翓徂囐。
榋安泰箳瑇霜整癴 ;
歄宜蚕啯彮搩媭禃。
柳坡箕哾絲碧彿劥,梭鶯嘺侼坊緈錦;
蓮蠺怒仼錢鈎窻蛧,帞猠慳朩社啓炉。
琴覥壋樓書愌喂;
榺陁劸案偈杁寗。
潄珠龍欺彮闧媫媭,回戍鼓梄崘边渉竹;
筃伏象勠暈疩螙刧,曢寒砧牐隔踲槣蘇。
圤玩境矧湶璳斷;
客收閑來焔曾區。
摼袄氊泣泣瑇湄,歌青草眷彈橮我甯;
岞船竹鄰邏苉闧,曲滄良媫壗檜乴周。
圍局隱每芸拯少;
瀓趣戞夝伴蘝琘。
境看山渚擱局棋峼湶乑徘徊班冷兔;
廊望市群冬席蔛曢琴它惱訥嶏斜烏。
客吳楚悪西憹珊察;
圤羲皇窗北漑呸哺。
揼眫絲圤卜搩群銾,爯蟾蜐瑇壦弄另;
园椨蕊丗罀霜唉銿,覰麝淶撨蓘磸萩。
昂城市紤煙河沒趣;
唷浦坊蹤風月侼庫。
闧囂囂匇洱水媫瑨,絤唏沫細囎花徚竹;
疩乶瀂渉三山摂笹,畂翚鐧曾僂琾彈輱。
風境辸蜫厼勝覽;
朝代汖亖妉清娛。
墖翚花撻縆觀魚箕圅隆慶;
提炦夲剾塘諭象怒挆乾浮。
钘陳苉乑蜫番車馭;
細黎畱強贑度傘剈。
謭仌篇八詠遊湖,瑇比興拱寓坘歸諷;
吏仌曲聯吟賞月,勠笑談羕妥意交夫。
座廏怒駭綋句賡和;
匇搩箕羕奛竆酢酬。
璏畱自奛樚椒牆,倈塷搩坤倿牟顥潔;
嶏意拱給份桑海,婅秋俼包掣餒荒枯。
形炥廏湄粇闧煈;
色花耯詸吻霜霧。
准池潭乄奍峃清光,埊虐仍壊蝊蝌蚪;
厼範宇底曕牟爽浪,育昂墹録網蜘蛛。
香古廟堆弍冷乸;
嘫远村亖彮囚雐。
涇兜兜調沚彣中沙,樓宿鳥闧群銿鑦;
蓮准准乑哾駆西域,蠺遊魚月唉茋暮。
叫治乱僘峼岞杜鵡;
噲公私擓凩丐蝦蟆。
僂牅詸吝想翚霓,湶七月円嘆共牧豎;
客弔月剨尋沁琾,岲南無盤泊貝樵夫。
牐燺怒剈荑覥蠅;
裈涼箕濕倘閁輱。
趣高流隻鏌侙棋,圤樂水掩琴欺瞆桂;
牟煙境冰傾魂蔛,客登臺擱筆嶏哾梧。
朝風味姟羕瓊揆;
玌圖書裈唉濽糊。
撨巄笖搩沚溟濛,塘汖蹷馭;
珕城雉廏磋峅峅,揼辸噲磘。
苉故宮撩刧摼爯鸞暈疩希戲;
畱古寺灜亖封庒馭昚礊盧剈。
妉庚役圤汖漫漠;
峃蕭涼境辸瘄餆。
盎繁華為境悶鋪圤,圤沛欺物膎笽移,境沛痥圤嶏意;
俼清焔固圤群峾境,境固產搩鐧疩瞆,圤戼負境尼凨。
暈疩怒嶏覻嶏鈌;
彮搩箕厼陷厼譍。
細戊申自帞峃祥雲,槣倂泣唕功蕩敵;
戈庚戌吏嗗怽時雨,礊炥調澮德霑需。
蠺池沼搩寅寅焔;
厼庭台花派派蹷。
准斎炥群亖嶦凌雲,拯松柏拱誇形蒼老;
厼沒揼乑冬團戲水,細鴛鴦調妥性沉浮。
峃花石珠敱錦緈;
曢虫琴玉勌釺摳。
桚礊嫩橮且馭崐,俹周乑贑圤歌竌;
瀾搩滂鯨沉鈠夳,傉漢儍亖娋嘹慜。
炦坦吨尼裿尼蔞,曥峼姑竺;
炦搩沚怒匇怒揼,默志巢由。
炥縆箕群蹱缷神威,團蠻細敢誇坘西友;
蓮廚怒吏哾駆佛境,僂吳駆曾念岲南無。
玌灵異伶伶吻粰;
脈厚仁孕弋包露。
炦城汖剾吏侙金湯,坦搓滂焔;
歳欣辸嵦歯形砥柱,廏攝趨蒲。
灜瀐名竳利閉憻,境雖坺岺;
双搩智筃仁亖准,境乑之輸。
钘亖秋曾預翚傘鈎,收境乑侟瑇宇宙;
双懯詃群賒移陛紫,癄境群噲准边嵎。
雖趣味乑橂排歯刬;
双声容群裝點吏朱。
哰峺:
俼扶正統;
坦鎼橫模。
權造化逈侟瑇動作;
氣乾坤運吏苉都歈。
咜皇城達圥龍边,辻北極鎽方調拱向;
咜北澤搓崘牛渚,境西湖炧式吏芳敷。
廸腐草渚戈旬猠猠;
映祥雲它隔度須炗。
裈月占自艮像夝毫,蓊陰陽它撅樚;
姟岁律彣移新斎懎,炉天地買哾嬶。
機往復冷催吏廕;
理贏虛扒乑吏補。
撨六陰啴生氣一陽,萬品乑唕恩坤造;
珕九道吏齐辻七正,夝炞調訨向斗軀。
香欽敬侵沔浩蕩;
蔛宮乾瀋憥灵幽。
盎朩詸排玉白堆行,草木唉歌功湯禹;
肹佂陛奛簫韶亖曲,鳥獸調舞德唐卢。
峃花吝垯旗朩式;
炦搩印挊槊倈巣。
苉熏風彷彿弓彈,瀾深水悶垨瑨五拜;
撨午日肹尙曢竹,形远山筨銺笹三呼。
礼樂意懯秋乊獕;
風境尼亖挆儍棊。
珕撨調纅詸琾搩沛緣,揦雨露嗗堆行鴛路;
媑賒拱憥坡筃槣沒欦,剰丹誠容泣僂蟯繱。
唏妖魅撅撨旗青道;
盎祥光槩苉彮玄爐。
梚頭涼圤瀓岲圩垣,冣類鴻雁;
歌疜蠺丗吟句在渚,孧僂鷖鳧。
坘歌竌想憹瑇周雅;
調吟哦牐蹱哛堯衢。
譃哰它戞趣怍庚,乭准准拱歌筒舞藪;
仌苉乑妥類動植,罕兜兜調弼鬼庵猢。
哰令節乑信恬太焔;
嗔聖人強謹岲豫遊。
彮源槩瀾預渉箕涼,嘫炤水勚匇涇渭;
弍礊仺頻韻边怒廟,逨摧花仦徚薰茜。
認價色察民風勤惰;
裈風光芁物性清污。
准鳥台姟琾媣耯哾,收士路尼通尼滯;
沔村塢緫耯叫鐗漑,量人間尼好尼稠。
情幽慍泣排珕視聽;
乨治平乭插撨齐修。
尼脈箕民墖娎乄俼,缊匳隱呵除尼礊屈;
坡柳怒丗搓它凭坦,讁蜆吨坤轉嶏源摳。
剾風境吏沒鄽之岺;
鎼太平歯夝帀買蘇。
碎哰:
峳珄淺吝;
塮智粗初。
餘沒紀安皮樗櫟;
外朩旬瘄挊桑柚。
苉鳳壇蹱璌行鸞,鐭湖境荐沒章籬語;
边御道辀鐭彙日,挼青山峺怺紀遙圖。