Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Gia Thiều
Ới thị Bằng ơi đã hết rồi,
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ơi.
Trưa hè nắng chái oanh ăn nói,
Sớm ngỏ trưa sân liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
Mãi mãi theo hoài chứ chẳng thôi.
Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi phoipha ngày 31/08/2012 19:18
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi phoipha ngày 31/08/2012 19:37
Có 1 người thích
Tình cờ đọc được bài thơ này do Vanachi đăng :
"Khóc Bằng phi
Ới thị Bằng ơi đã hết rồi,
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ơi.
Trưa hè nắng chái oanh ăn nói,
Sớm ngỏ trưa sân liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
Mãi mãi theo hoài chứ chẳng thôi.
Có ý kiến cho rằng bài thơ này của Nguyễn Gia Thiều."
Xem lại trong cuốn Thi văn bình chú của tác giả Ngô Tất Tố , trang 91 chép như sau :
Ới Thị Bằng ơi ! đã mất rồi !
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ơi !
Mưa hè, nắng chái, oanh ăn nói,
Sớm ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi .
Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi .
Mối tình muốn dứt, càng thêm bận,
Mãi mãi theo hoài, chứ chẳng thôi.
Thấy rằng, so với bản này thì có khác đôi chút, bên dưới tác giả chú thích như sau :
"Bài này nhiều người bảo là của vua Tự Đức. Nhưng các vị cố lão thì nói là của ông Nguyễn Gia Thiều khóc nàng Bằng Cơ, một người vợ lẽ của ông.
Xét ra vua Tự Đức cũng ít khi làm thơ quốc âm. Coi tập Việt sử tổng vịnh và những nhời phê của ngài ở bộ Việt sử Khâm Định, thì biết tính ngài rất bệ vệ, lúc nào cũng muốn tỏ mình là đấng anh quân. Với cái tính kiểu sức ấy, chắc không khi nào ngài chịu dùng những chữ tình chữ duyên để khóc một người đàn bà. Huống chi thơ vua Tự Đức rất dở, cả tập Việt sử tổng vịnh không được mấy bài nghe được. Vậy mà bài này lại là một bài rất hay, có lẽ sức ngài không thể làm nổi"....
Thực hư thế nào, xin mời các bạn thảo luận thêm .
Gửi bởi Vanachi ngày 14/10/2018 22:46
Trong cuốn “Văn học VN nửa cuối TK 18 nửa đầu TK 19” - 1976 của Giáo sư Nguyễn Lộc phần về Nguyễn Gia Thiều có nói, cụ Ôn Như có mấy tập thơ như Ôn Như Thi Tập, Tây Hồ Thi Tập, Tứ Trai thi tập... với số lượng hàng ngàn bài thơ, nhưng đến nay đều mất cả (chắc do tình cảnh loạn lạc Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn thời kỳ này) chỉ còn vài ba bài chép trong Tạp Ký của Lý Văn Phức.
Vừa qua nhân đọc cuốn Tạp Ký của Lý Văn Phức mà G.S Nguyễn Lộc có nói đến, thấy đoạn chép về Nguyễn Gia Thiều, như sau:
Ôn Như tiên sinh sở trường nhất ở lối thơ quốc âm. (Ông) có hai lối làm thơ, một là ứng khẩu thành chương mà lời lời đều khiến mọi người ưng ý; cách nữa là chau chuốt gọt giũa, thì lời lời đều khiến mọi người phải kinh ngạc. Có bận ông gọi đứa ở tên là Cam đi lấy đồ ở các nơi hiên viện, thế này:Có thể nói đoạn ghi chép trên cũng như là một tiết phẩm bình về thơ của Ôn Như hầu của sách “Thi thoại” vậy. Thực đáng tiếc là mấy tập thơ của Ôn Như Hầu đều không còn. Nếu không có thể chúng ta đã được đọc nhiều hơn thơ Nôm của ông. Nhưng, qua đoạn ghi chép này, có thể khẳng định được rõ ràng một lần nữa, về tác giả hai câu thơ được coi là hàng danh cú: “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng; Xếp tàn y lại để dành hơi” chính là Nguyễn Gia Thiều chứ chẳng phải Tự Đức như một số lưu truyền trước đây. Bởi vì, Lý Văn Phức làm quan ngay thời Tự Đức thì không thể chép thơ của Vua ra rồi bảo của người khác được.
“Cam, tốc ra thăm gốc hải đường;
Hái hoa về để kết làm tràng.
Những cành mới chiếng đừng vin nặng;
Mấy đoá còn xanh chớ bứt quàng.
Với lại tây hiên tìm liễn xạ;
Rồi sang đông viện lấy bình hương.
Mà về cho chóng đừng thơ thẩn;
Kẻo lại rằng chưa dặn kỹ càng.”
Lại có hôm nhàn toạ trong vườn nhỏ, thấy mấy loại rau nho nhỏ như gừng, tói, đều bị mưa gió dập rụng, ông cảm khái nói:
“Lép nhép vài hàng tỏi;
Lơ thơ mấy luống khương.
Vẻ chi tẻo hèo cảnh;
Thế mà cũng tang thương.”
Đó là lối ứng khẩu vậy.
Lại có câu vịnh Canh Năm rằng:
“Dế gọi người nằm thiên cổ dậy;
Sương trùm cảnh đứng tứ canh đi”
Lại có câu khóc vợ rằng:
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng;
Xếp tàn y lại để dành hơi”
Lại có câu vịnh cảnh:
“Đưa lọt kẽ mành khuôn gió dẹp;
Luồn qua cửa sổ dáng trăng thô”
Đó là lối chau chuốt gọn giũa vậy.
Lại có bài thơ “Gửi tình nhân” rằng:
“Khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào;
Miếng tình nghẹn mãi biết làm sao?
Muốn kêu một tiếng cho to lắm;
Rằng ối ai ơi khốn thế nào!”
Bài này thì lại kiêm dùng cả hai lối vậy. Học làm thơ quốc âm, mà đến được như Ôn Như tiên sinh, đáng gọi là tột bậc vậy!
Gửi bởi Vanachi ngày 14/10/2018 23:31
Khóc Bằng phi hay Khóc thị Bằng là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
Tuy nhiên, sử sách chính thống của triều Nguyễn cũng như một số tư liệu khác từ trước đến nay đều không cho phép nói như thế. Vậy tác giả của bài thơ ấy là ai? Chúng tôi xin nêu vấn đề này ra để tìm hiểu và mong các nhà nghiên cứu văn học sử tìm ra được tác giả đích thực của bài thơ:
Khóc Bằng phiĐây là một bài thơ Nôm có giá trị văn chương rất cao, kể cả về hình thức lẫn nội dung. Lãng mạn nhất là ở hai câu luận (câu 5-6) với ý tứ cực kỳ mới mẻ và táo bạo: vì quá nhớ thương nên đập vỡ tấm gương mà nàng đã từng soi để mong thấy lại được hình ảnh của nàng trong đó, và xếp chiếc áo cũ mà nàng đã từng mặc, đem cất kỹ để thỉnh thoảng giở ra để thưởng thức lại dư hương. Theo sách Nam phong giải trào của Trần Danh Án, Ngô Đình Thái và Trần Doãn Giác (thế kỷ XVIII-XIX) được khắc in vào năm 1910(1) thì hai câu thơ này đã lặp lại phần lớn các từ ngữ ở hai câu trong một bài thơ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798)
Ới Thị Bằng ơi đã mất rồi!
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi!
Mưa hè, nắng chái, oanh ăn nói,
Sớm ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi.
Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi.
Đập mảnh gương ra tìm lấy bóng,Trong 14 chữ ấy, tác giả sau chỉ thay thế 4 chữ của tác giả trước: đổi “mảnh gương” ra “cổ kính” và thay “manh áo” thành “tàn y”. Văn phong trở nên bay bướm và hoa mỹ hơn.
Xếp manh áo lại để dành hơi (2).
Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê!Cũng cần biết thêm rằng khi biên soạn quyển Việt Nam văn học sử yếu vào năm 1914 tại Hà Nội, nhà giáo Dương Quảng Hàm đã dành ra một chương để đề cập đến “Các nhà viết văn Nôm về thế kỷ XIX”, trong đó, ông đã phân loại thơ văn chữ Nôm của vua Tự Đức thuộc về khuynh hướng đạo lý, chứ không phải khuynh hướng tình cảm (8).
Sống gửi, rồi ra lại thác về.
Khôn dại cùng chung ba thước đất,
Giàu sang chưa chín một nồi kê.
Tranh giành trước mắt mây tan tác,
Đày đoạ sau thân núi nặng nề.
Muốn đến hỏi tiên, tiên chẳng bảo,
Gượng làm chút nữa để mà nghe (7).
Lên Khiêm cung
Một phen một mới gọi tân cung,
Ước đã mười năm hỡi mối mong.
Sẵn thế núi non đà tạo lập,
Thêm hình điện các lại hào hùng.
Khắp đường cây rập cành xuân mát,
Vào cửa mình quên nắng hạ nồng.
Khuyên kẻ theo đòi đừng sợ nhọc,
Đuôi rồng vin đặng lọ râu rồng.
Khuyên học
Tánh linh người vốn khác muôn loài,
Chẳng học sao mà đặng gọi người.
Xây mặt vào tường nào biết chuyện,
Cong lưng như nộm khéo trê đời.
Nên kim tìm khó siêng mài sắc,
Kiếm nẽo cho thông phải phát gai.
Sanh biết gắng hay rồi cũng một,
Thánh hiền cũng chúng khác gì ai.
Mừng đặng mưaVề mặt hình thức, chúng ta thấy ở cả 3 bài thơ đều có dùng một số từ ngữ thường gặp trong lời thơ từ thế kỷ XIX trở về trước, chẳng hạn như: đà, lọ, trê đời..., và đặc biệt nhất là cả 3 bài đều có dùng từ “đặng”:
Tình cơ may gặp trận mưa rào,
Thiên hạ vui mừng hẳn biết bao.
Thần núi ứng mây thêm đậm đậm,
Ơn trời rưới nước khắp ào ào.
Tràn đồng hột ngọc nhờ no đủ,
Một nhọt cân vàng khó ước ao.
Hai tháng tưởng cầu nay mới đặng,
Rằng thanh minh võ tạc non cao (9).
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 18/12/2018 10:50
Không phải vua Tự Đức chỉ để lại cho chúng ta những bài thơ “điêu trùng tiểu kỷ” chỉ dùng để gia vị cho những câu chuyện phong tao lúc trà dư tửu hậu. Trong số thơ lưu thế của nhà vua, vẫn có bài, có câu, ngoài đáng yêu, trong đáng trọng. Như trong bài Mừng được mưa, có câu:
Tràn đồng hạt ngọc nhờ no đủ,Nhất là bài Khóc Bằng phi mà không mấy người không thuộc, có thể gọi là tuyệt tác:
Một giọt cân vàng thoả khát khao. [1]
Ớ Thị Bằng ơi! Đã mất rồi!Văn thật là luyện, tình thật là thâm! Đọc lên lòng người nghe không sao giữ được khỏi rung cảm.
Ớ tình! Ớ nghĩa! Ớ duyên ơi!
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói
Sớm ngõ trưa sân liễu đứng ngồi…
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Mối tình muốn đứt càng thêm bận,
Lẽo đẽo theo hoài chẳng phút lơi. [2]
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,Nhưng có người chê là “có vẻ con nít” nhất là câu “đập cổ kính ra tìm lấy bóng”.
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Hạo kiếp tín ư kim nhật tận,Người đời Tống có câu:
Si tâm nghi hữu biệt gia khai.
(Kiếp lớn những tin nay đã hết,
Lòng si lại tưởng nở vườn ai.)
Lão tăng chỉ khủng vân phi khứ,Đề bức hoạ mỹ nhân ngồi xây lưng, Trần Sở Nam đời Thanh, có bài tuyệt cú rằng:
Nhật ngọ tiên gia yểm tự môn.
(Tăng già chỉ sợ mây bay mất,
Đứng bóng lo sai đóng cửa chùa.)
Mỹ nhân bối ỷ ngọc lan canTác giả Tuỳ Viên thi thoại khen là “Diệu”, và “Diệu tại nơi lời nói như trẻ con” (Diệu tại giai hài tử ngữ giả).
Trù trướng ba dung nhất kiến nan.
Kỷ độ hoán tha tha bất chuyển,
Si tâm dục trạo hoạ đồ khan.
(Người xinh ngồi tựa câu lan,
Mặt hoa mong thấy muôn vàn khó khăn.
Mấy phen kêu luống nhọc nhằn,
Hoạ đồ lật ngó mới bằng lòng si.)
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,Câu trên thì ngây câu dưới thì si. Mà si và ngây đều là tâm tính của khách đa tình vậy.
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Nắm xương dưới ván cau mày khóc,Thì thảm cho cảnh. Nghe vua Tự Đức khóc Bằng Phi thì thương cho tình! Bên cảnh bên tình khéo vấn vương! Cho nên đối với khách đa tình, những bài thơ có tình như thơ Khóc quan phủ Vĩnh Tường, Khóc Bằng Phi đều là những vần tuyệt diệu.
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười.
Đập mảnh gương xưa tìm lấy bóngVà câu này đã dịch câu Hán văn của Trần Danh Án:
Xếp manh áo cũ để dành hơi.
Phá tổi lăng ba tầm cựu ảnh,Không biết những câu ấy vô tâm mà trùng hợp nhau, hay cố ý vay mượn của nhau.
Trùng phong khâm tử hộ dư hương.
Đa tình chỉ hữu tiêu tiêu trúcDiêu Cơ Truyền cũng có câu:
Thời đới tà dương lục đáo song.
(Đa tình riêng ánh trúc hoa,
Ngày ngày đeo bóng dương tà vào song.)
Nhân tích bất như tu trúc ảnhHai người tuy đồng thời, nhưng ở cách nhau ngàn trùng non nước và chưa hề quen biết nhau. Văn chương của hai người lúc bấy giờ cũng chưa được phổ biến. Nhờ có Mai Viên đi đây đi đó tình cờ thu thập được mới đem vào tập Tuỳ Viên thi thoại. Từ ấy nhiều người mới biết danh hai nhà thơ, và hai câu thơ mới được truyền tụng.
Mỗi tuỳ minh nguyệt đáo trung đình.
(Dấu người thua bóng trúc xanh,
Đêm đêm theo ánh trăng thanh vào thềm.)
Bốn dây ứa máu tỳ bà.Một câu thơ quỉ khốc thần kinh. Một câu thơ siêu thực xưa nay chưa từng thấy trong văn thơ Việt Nam. Ai cũng phải khen là tân kỳ. Nhưng có ngờ đâu một thi nhân bên trời Âu cũng có một câu tương tợ:
L’archet mord jusqu’au sang du violon.Một người ở đầu thế kỷ thứ XIX, một người ở đầu thế kỷ thứ XX, và một người ở Âu một người ở Á. Thế hệ khác nhau, dân tộc tính khác nhau, mà ý tứ còn trùng nhau thế ấy, huống hồ vua Tự Đức, Ôn Như Hầu và Trần Danh Án.
Thiên nham thạnh trở tríchLý Thái Bạch bình sanh rất thích họ Tạ, cũng có câu:
Vạn hác thế oanh hồi.
(Ngàn núi thạnh ngăn chứa,
Muôn hố thế đoanh lộn.)
Thiên nham tuyền sái lạcMà chẳng riêng gì Lý Thái Bạch, các đại thi gia khác cũng vậy. Như Đỗ Phủ tập thơ của Dũ Tử Sơn, Âu Dương Tu tập thơ của họ Hàn. Có người chê là “thâu đạo” tức “ăn trộm”.
Vạn hác thọ oanh hồi.
(Nghìn núi suối tuôn xối,
Muôn hố cây đoanh lộn.)