Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Bá Xuyến » Tế văn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/06/2020 17:19
Than rằng:
Tu mà chẳng chót, giận lòng thế tục mơ hồ;
Phúc dễ biết đâu, thương mắt nhân gian ngơ ngác.
Hình tượng xưa gương thánh khôn soi;
Dung nhan ấy bút thần khó mạc.
Nhớ thầy xưa:
Lòng dốc từ bi;
Đạo xây chân giác.
Ngăn thói dữ phải tìm đường tế độ, khơi dòng nước tĩnh rửa tham dâm;
Đem thân nhàn mà nương cửa sắc không, đốt ngọn lửa từ soi thiện ác.
Hoa dâng dãi tỏ vẻ vô trần;
Hương cúng ngát lừng mùi bất sát.
Mông Sơn bước chân đàn chẩn tế, giọng vàng đưa đẩy dịp tiêu thiều;
Pháp giới ra tay ấn khu trừ, vẻ ngọc lung linh vầng thỏ nguyệt.
Mũ che tai đâu quản tiếng thị phi;
Tràng đeo cổ sá gần người đơn bạc.
Tín nữ gần xa đều ngóng cổ, chốn kiều Đông đà khét tiếng già lam;
Đạo tăng đâu đó cũng về đầu, miền thành Bắc hết theo dòng y bát.
Đường tu âu hãy mảng vui;
Mùi đạo vốn còn khao khát.
Những nghĩ một trăm dư tóc bạc, bút Tào son nhuế nhoá, dựng đàn tràng chua lấy chữ hà xương;
Nào hay ba mươi tám xuân xanh, giấy Đẩu mực pha phôi, đem pháp khí gửi về miền cực lạc.
Tưởng hoá sinh là vốn ở xanh vàng;
Nên cầu khẩn chẳng tiếc gì tiền bạc.
Xem cơ bệnh thấy một ngày một ngặt, kẻ nói ma thiêng người rằng nước độc, lấy thuốc bùa mong dắt lối siêu sinh;
Hỏi bói khoa còn nửa sợ nửa mừng, nay nghi phật quở, mai ngỡ thần trêu, đem kinh kệ rắp làm đường giải thoát.
Oan vì đâu hay tội đồ vì đâu;
Xuân chửa trạc bỗng hoa thì đã trạc.
Ôi!
Nguội lò phúc đức, chư vãi ngẩn ngơ;
Chiêu cốt từ nhân, chúng sinh xào xạc.
Trong một kiếp khéo tu mà vụng hoá, thở than đã khắp trẻ cùng già;
Ngoài hai tuần tốn của lại hư công, nuôi nấng luống phiền cô với bác.
Kiếp trầm luân nghĩ lại những bâng khuâng;
Trên thế giới ngắm xem còn chếch mác.
Kìa phận bạc vẫn nửa chừng dại dột, cơn ly biệt tấm lòng thảm đát, đền công trả nghĩa hãy ân cần;
Nợ tình thâm còn ba chút ngây thơ, lúc di lưu nước mắt ngập ngừng, gây cửa dựng nhà xin ký thác.
Sân rêu cỏ mọc trăm thức bẽ bàng;
Mẹ goá con côi một đoàn tan tác.
Ngày sóc vọng kẻ làm duyên làm phúc, kìa thiền nọ khách, đau đớn nhỉ giở cầm thì long, giở tranh thì bụi, giở chè thì hả, giở ấm thì meo;
Tiết thiều quang người dâng quả dâng hoa, ấy cảnh nào thầy, bát ngát thay để sa ai mặc, để trống ai rung, để hương ai thiêu, để đèn ai gợt.
Mõ rù rì khóc thảm dưới đền;
Chuông réo róc kêu sầu trên gác.
Anh từ đấy thiếu người bàn mực thước, nấu thang buồn lửa hạ chất nồng nàn;
Chị từ đây không kẻ tiến hương đăng, ngừng giọt nhớ sương thu rơi lác đác.
Đùn đùn mạch thảm như khơi;
Vằng vặc bể sầu khôn tát.
Nào xiết kể đường quê nỗi chợ, đám tiu tiu thêm hổ chút người còn;
Gọi là dâng thức nhạt mùi suông, niềm cảnh cảnh ngõ thấu cùng kẻ thác.