Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Bá Xuyến » Tế văn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/06/2020 12:55
Than rằng:
Khép mở ấy then con khuôn đúc, nương dâu bãi bể vẫn nhiều phen;
Gửi về là đường cái xưa nay, nước Nhược non Bồng nào mấy kẻ.
Trăm năm tóc bạc, cỏ lấp sương vùi;
Một nấm rêu xanh, mưa tan gió xẻ.
Xưa nghiêm phụ buổi nhà Vương cửa Tạ, mùi hương thập lý đã thơm lừng;
Tới từ vi cơn nước phật làng tiên, vai gánh cửu cù thêm nặng trễ.
Cười nhân nói nghĩa đất vun tài;
Đứng phép ngồi khuôn trời đúc vẻ.
Chìm sóng lợi dầu ai bụi đỏ, ngoài tai giàm loá cửa đào môn;
Nỗi thuyền thương hiệu dấu họ Đào, trước mặt gió trăng doành bích thuỷ.
Ngày lần tháng lữa, ước chẵn trăm thu;
Tuyết quở sương trêu, gần trong bảy kỷ.
Nhà đan dược hãy hênh lò thuốc Biển, quy gìn chén thợ bốn còn lăm;
Áng bạch vân đâu sịch bánh xe tiên, phượng thét hồi tiêu sao kíp nhỉ.
Đầu thềm gọi nhớ váng hồi ve;
Trước sối khêu buồn rền tiếng đế.
Chang nắng hạ mới se dây cát luỹ, đã đôi phen mà phận ấy chông chênh;
Quạnh hơi xuân nên võ vóc phù dung, thì chín suối để nguyền kia vẹn vẽ.
Sẩy cơn tụ tán càng đau;
Giở chuyện gia đình lại tẻ.
Thương người đã tới tuần trổ quả, trước gió lá xanh phút rụng, để lại một đoàn măng sữa, luống âm thầm cửa bạc nhà thưa;
Xót kẻ vì gần độ gieo cầu, dưới trăng tơ thắm chửa xe, những là nhiều chốn sương gieo, thêm thẹn tủi cơm san áo sẻ.
Môi đoàn hoè quế, nỗi xiết bao đành;
Hai đoá liễu bồ, tình khôn xiết kể.
Một thời tếch xe loan vui khúc phượng, ấy khuya bùi sớm ngọt đã không rồi;
Một thời đeo tóc bạc tẻ duyên hoàng, mà chân tuyết đầu sao là mặc thế.
Nỗi tam sinh dường ấy là bao hận;
Thiên cổ từ đây rõi để.
Ôi!
Hoa trôi mặt nước, hàng liêu mày chau;
Ác lặn sườn non, ngàn dâu bóng xế.
Cất mắt phố Nam nơi đất khách, loảng choảng tiếng hàn châm nện nhặt, chệnh nguồn cơn thêm quận khúc viên tràng;
Ngảnh đầu thôn Ngọ chốn quê nhà, lăng băng con phi yến về hôm, tưởng nỗi nước lại sa hàng giao lệ.
Suối tăm khế khoát lúc đầy vơi;
Cồn trận bi tư cơn nặng nhẹ.
Ngóng đỉnh Quế đá chồng mấy lớp, sương che khói ngất, đi về đường liễu nhặt mơ màng;
Dải sông Đằng sóng nổi đòi tầng, gió thổi mây tuôn, xuôi ngược lá buồm bay lẻ thẻ.
Nay nhân:
Đường tổ rước về;
Tuần ngu tạm lễ.
Nhà thanh bạch biết lấy gì báo đáp, ngỏ mượn khói hương dâng chữ kính, trước giường thiêng xin kêu với quỷ thần;
Cửa thư hàn đâu còn có phong lưu, xin đem mảnh giấy vẽ tình riêng, trên mây bạc hoạ thấu cùng thiên địa.