Đăng bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 12/08/2009 01:27
Nguyễn Bá Trác biên soạn nhiều sách, nhưng được nhiều người biết đến hơn cả là tập Hạn mạn du ký (có nghĩa là đi chơi phiếm). Đây là thiên ký sự bằng chữ Hán gồm 14 chương, sau ông mới đem dịch ra Việt văn, rồi đăng trên Nam Phong tạp chí từ số 38 đến số 43 vào năm 1920.
Nguyên nhân sáng tác, trong lời mở đầu, Nguyễn Bá Trác đã cho biết như sau: “Tôi về nước đã 5 năm nay, kể từ năm 1908 bước chân đi, đến năm 1914 tôi trở về Sài Gòn giữa ngày tháng 8, tính đốt ngón tay một dạo phiếm du chốc đã 6 năm có lẽ. Loanh quanh trong nước một năm, tạm trọ ở Xiêm La hơn 10 ngày, làm khách qua Nhật Bản một tháng, rồi lại sang Trung Hoa, bao nhiêu thương phụ to, tỉnh thành lớn, như Ba Thục miền Tây, U Uyên đấyt Bắc, Quế Việt cõi Nam, đều là chỗ mình có để ít nhiều dấu xe dấu ngựa. Nay đem đường lối phong cảnh mà mình đã trải qua nơi đất khách, chép nhặt một vài, còn chuyện chi chi (ý nói đến việc đi làm cách mạng của ông) không rổi mà nói đến.”
Đề cập đến tác phẩm này, nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế Ngũ viết: “...Câu Việt văn khác mạch lạc suông sẻ, đôi chỗ đăng đối du dương. Những tình tiết ly kỳ của cuộc phiêu lưu nơi đất lạ đã đem lại cho câu chuyện nhiều vẻ hấp dẫn. Nhất là đối với các Nho gia ta khi ấy từng ôm cái mộng Đông du; nếu không thì trí não cũng đầy kỷ niệm văn chương về danh nhân, danh thắng Trong Hoa, đọc Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trạc thật là thú vị. Cả nữ giới cũng hoan nghênh lắm. Bà Tương Phố từng kể hay gối Nam Phong ở đầu giường để đọc du ký của ông Quỳnh (Phạm Quỳnh), ông Trác mà mộng du đất Pháp, đất Tàu. Ông Dương Quảng Hàm khi làm sách Quốc văn trích diễm (1925) dành hẳn cho thiên du ký của Nguyễn Bá Trác hai bài trích, đó là Đường đi Hương Cảng và Điếu Kim lăng [1], đủ thấy độc giả đương thời đã thích thưởng thức dường nào.” [2]
Và trong tập sách này có một khúc ca phương Nam do ông dịch, đã giúp ông thêm nổi danh.
Hồ trường
Cái tên Hồ Trường do người đọc trích chữ trong lời ca mà gọi chứ không phải do Nguyễn Bá Trác đặt. Và cho đến nay (2009), vẫn chưa rõ bài ca ấy tên gốc là gì, tác giả là ai.
Bài này nằm ở chương 10 tập Hạn mạn du ký. Ở chương này, tác giả cho biết vào khoảng năm 1912, khi lưu lạc đến Thượng Hải, ông đã gặp một người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát hay (giọng Quảng Đông). Một đêm nọ, hai người đi uống rượu, “rượu ngà ngà, Nguyên quân đứng dậy mà hát” (mà sau này gọi là Nam phương ca khúc). Ở bàn bên cạnh, một võ quan họ Lưu, người Trực Lệ, nghe điệu hát, sang hỏi là điệu gì, được trả lời: “Ấy là một điệu đặc biệt ở phương Nam”, họ Lưu nói “nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái, Nam phương mà có điệu hát đến thế ru?”. Sau đó họ Lưu xin người hát chép ra giấy lời ca ấy để giữ xem....
Giới thiệu bản dịch bài Nam phương ca khúc, Phạm Thế Ngũ viết: Trong thiên du ký (Hạn mạn du ký), đặc biệt có một bài ca do một người bạn tác giả gặp ở Thượng Hải, cùng trong cái cảnh đào vong vì quốc sự, thường nghêu ngao hát những lúc mượn chén tiêu sầu nơi lữ điếm. Bài ca ấy độc giả bấy giờ và nhất là những người cách mạng lớp sau, ai cũng thích, thường học thuộc và ngâm nga...[2]
Bản phiên âm Hán-Việt trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920, trang 400 – 401 và bản dịch của Dương Bá Trạc (đã chỉnh lại lỗi chính tả so với lần in đầu) được nhà biên khảo Phạm Hoàng Quân sao chép lại.
Đăng bởi tôn tiền tử vào 04/01/2019 01:39
Nguyễn Bác Trác người Quảng Nam, đậu cử nhân, trước kia theo cụ Sào Nam xuất ngoại. Sau trở về đầu thú, được thực dân Pháp miễn tội, cùng Phạm Quỳnh chủ trương tờ Nam Phong. Được ít lâu nhờ tố giác một số đồng chí cũ (trong đó có Đặng Văn Phương tức Đặng Đình Thanh ở Cần Thơ, người đã từng du học ở Đông Kinh), Trác được bổ đi làm quan Nam Triều.
Lúc ngồi Bố Chánh Bình Định có người gởi tặng câu đối:
Sóng Âu hải tràn ngang, tràn Hương Cảng, tràn Hoành Tân, tràn Mã Lịp Nhĩ Sơn, coi như tuồn dạ sắt gan đồng, một mực giữ gìn dân với nước;Rồi được thăng Tuần Vũ Quãng Ngãi. Một hôm gặp một người quen cũ là Phan Đình Long bị giam vì tình nghi âm mưu xúi dân làm loạn, Trác cho mời lên tư dinh. Sau một vài câu chuyện đầu môi, hỏi:
Gió Nam phong thổi ngược, thổi Hường lô, thổi Binh bộ, thổi Bàn Thành cụ Bố, quen những thói vào luồn ra cúi, đôi đường chen chúc lợi và danh.
Cửa thiền tiêu mỏ chán rồi a?Phan Đình Long là một nho sỹ có tinh thần cách mạng quốc gia, bị Chánh quyền địa phương theo dõi. Họ Phan bỏ vào Nam. Sống yên ổn được sáu năm, đến năm 1930, trong Nam có rải truyền đơn hô hào chống Pháp, họ Phan bị tình nghi là thủ phạm. Toà Sài Gòn kêu án sáu tháng, mãn hạn bị giao hồi nguyên quán. Về Quảng Ngãi được hai tháng, thì ở Quảng Ngãi có rải tryền đơn, họ Phan bị tình nghi nên chánh quyền địa phương bắt giải tỉnh. Nguyễn Bá Trác xét thấy không có bằng cớ để buộc tội, nên có ý ban ơn. Nhưng bị bài thơ chỉ trích, bèn làm án đến hai năm tù để rửa hận!! Họ Phan thản nhiên ngâm:
Trông đám bình khang thẳng bước ra
Vất chuỗi bồ đề nương bóng nguyệt
Soi gương trí tuệ điểm màu hoa.
Vuông tròn quả phúc tu chưa chín
Chay mặn duyên trần kiếp lộn ba!
Cho biết mùi đời hay cám dỗ
Khôn ngoan khi trẻ dại khi già.
Cách xứ sáu năm tù sáu thángỞ Quảng Ngãi nhờ đàn áp Cách Mạng mà được thăng Tổng Đốc Thanh Hoá. Đến Thanh Hoá mở tiệc đãi các nhà tai mặt tại tư dinh, một vị phó bản tặng cho mấy câu kiểu lẩy:
Về nhà hai tháng án hai năm.
Kể từ lạc bước bước raNếu thiên lương chưa bị mất hẳn thì chắc Nguyễn Bá Trác phải hổ thẹn và sợ hãi khi nghĩ đến hành vi gian ác của mình mà những văn thơ ghi chép lại cho hậu thế.
Một là đắc hiếu hai là đắc trung
Giang hồ quen thú vẫy vùng
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa!
Châu Công khủng cụ lưu ngôn nhật [1]Đại ý nói rằng: Nếu trong những ngày ông Châu Công rung sợ vì dèm pha, trong những lúc Vương Mãng hạ mình chiều chuộng kẻ sỹ, trong thời buổi ấy mà cả hai chết đi, thì người đời sau ai biết được người nào là chân kẻ nào là nguỵ.
Vương Mãng khiêm cung hạ sỹ thì [2]
Nhược sử đương thời thân tảo tử
Lương nhân chân nguỵ hữu thuỳ tri.