Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Đức Đạt
Đăng bởi tôn tiền tử vào 27/08/2020 09:03
Nay mừng quốc thái dân an,
Hà Thành hải án bốn phương thuận hoà.
Phủ thì đã xếp can qua,
Núi đà thả ngựa binh đà quy nông.
Bốn mùa xuân hạ thu đông,
Nhà no người đủ niên phong khí hoà.
Thái bình vận ứng hanh gia,
Khắp hoà thiên hạ âu ca vui mừng.
Thiên thu hưởng bát thiên xuân,
Muôn năm kính chúc thánh quân trùng trùng.
Có khi nhàn hạ thong dong,
Bút hoa lược chép thư trung thánh hiền.
Chép làm một quyển giáo thiên,
Để cho nhân thế tụng truyền dạy nhau.
Vương quan dân sự đâu đâu,
Cứ mà ăn ở phải theo luân thường.
Vua thì chính ngự ngai vàng,
Cầm quyên trị nước giữ giàng ngôi trên.
Trong ngoài cảm phục hoài an,
Ân uy kiêm trứ khắp miền hoa di.
Chữ rằng “biểu chính ảnh tuỳ,
Nguyên thanh tất thị lưu kỳ diệc thanh”.
Trên đà nghiêm chính phân minh,
Dưới thì lương tá triều đình đa nhân.
Dặn hay những bậc vương thần,
Cầm gương trung nghĩa lần lần thường soi.
Ở cho phải đạo vua tôi,
Nam nhi chí khí chẳng rời tấc gang.
Chữ rằng “sự bất từ nan,
Lâm cơ ứng biến đảm đang anh tài”.
Ơn trên cơm nặng áo dày,
Kể về toả thược người ngồi phiên ly.
Cư an thì phải tư nguy,
Vũ thì thao lược văn thì mưu mô.
Một niềm trung nghĩa đều lo,
Chu hành Thương giám cơ đồ công danh.
Vua tôi tận đạo trung thành,
Quốc gia tràng cửu trị bình an khang.
Đời xưa nhị đế tam vương,
Quân minh được có thần lương những là.
Lịch niên vũ trụ thái hoà.
Kiền khôn hoa đán thực là hoà vui.
Trước sau trọn nghĩa vua tôi,
Nghìn năm cũng chẳng đổi dời lòng trung.
Quân thần nghĩa cả bao dong,
Lại bàn sư đệ thuỷ chung thuở này.
Đã sinh ra đạo làm thầy,
Ở cho lễ phép khi nay hiền hoà.
Chính tâm tu kỷ tề gia,
Thế gian đã mục con nhà văn thân.
Ngồi trên giữ mực cầm cân,
Tháng ngày lộc thánh chúng nhân cung trần.
Chữ rằng “giáo bất nghiêm cần,
Nãi sư chi noạ thập phần tại trung”.
Tiểu nhi mới đến học cùng,
Dạy thì luyện tập nho phong lệ thường.
Lên lui ứng đối cho tường,
Giáo thì hữu hoá tuỳ phương nhi đồng.
Đại nho đèn sách văn phòng,
Phú thi luyện tập cho thông những là.
Một mai trò được đăng khoa,
Thì thầy được tiếng đàn hoà ngợi khen.
Thầy đà giáo quý dĩ chuyên,
Trò nay gióng giả bút nghiên học hành.
Gối Ôn man Đổng tập tành,
Chữ rằng “hữu chí cánh thành” chẳng sai.
Mãi Thần gánh củi trên vai,
Còn chăm đèn sách dùi mài nghiệp nho.
Nang huỳnh ánh tuyết thuở xưa,
Hãy còn cần học huống giờ chúng ta.
Sân Trình cửa Khổng vào ra,
Hàn vi đổi được vinh hoa có ngày.
Cờ đào trỏ nẻo đường mây,
Bõ công thầy dạy những ngày còn thơ.
Dặn cho những kẻ thư nho,
Chớ nên khác học bội sư bao giờ.
Thầy trò nghĩa cả chân như,
Lại bàn phụ tử hiếu từ cho bay.
Đạo làm cha mẹ xưa nay,
Ở cho phúc hậu lành thay hỡi lòng,
Tu nhân tích đức quan phòng,
Để cho con cháu trông mong cậy nhờ.
Những điều bạc ác kiêu ngoa,
Thì đừng để dạ vậy là thương thân.
Gái trai xem cũng đồng cân,
Đừng lòng tư vị riêng phần ghét thương.
Gái thì canh gửi việc thường,
Nữ công nữ tắc mọi đường phân minh.
Trai thì đèn sách học hành,
Thông kinh bác sử tinh thành tài lương.
Gia tài sản vật ruộng nương,
Tuỳ nghi gia kế liệu đường phân minh.
Sinh con đều muốn thành thân,
Kịp thời trai gái Tấn, Tần lứa đôi,
Chớ tham phú quý những nơi,
Mà lầm lại mắc phải người bạc đen.
Tìm nơi rể thảo dâu hiền,
Con nhà lệnh tộc kết nguyền trâm anh.
Đừng nề no ấm rách lành,
Trước tuy là vậy sau dành giàu sang.
Mẹ cha lo liệu cho con,
Quản bao công của thiệt hơn ngại lòng.
Mẹ cha lượng cả bao dong,
Con thì tận đạo hiếu trung kính thành.
Phụng thờ cha mẹ phân minh,
Trời cao cũng thấu hiếu tình cho ta.
Thần hôn định tỉnh vào ra,
Thường ngày cầu khấn mẹ cha yên lành.
Khi cơn phong vũ bất bình,
Ra công lo lắng lấy mình đại lao.
Phỏng khi tật bệnh tiêu hao,
Thì ta xem sóc thể nào cơ quan.
Trai thì chăm chỉ thuốc thang,
Gái thì cơm cháo chăm đàng tẩy ô.
Đừng mê tửu sắc bạc cờ,
Quên ơn cha mẹ công phu nuôi mình.
Chữ rằng “địa nghĩa thiên kinh”,
Ai ai phụ mẫu sinh thành cù lao.
Đức bằng bể rộng non cao,
Khi nay chẳng báo lúc nào trả ơn?
Chẳng nên tính thiệt suy hơn,
Ở cho phải đạo cha con thuận hoà,
Thuở xưa Vương Quý là cha,
Văn Vương vi tử ngày ba lần chầu,
Đến khi Văn lại phải đau,
Vũ Vương chẳng cởi ảo chầu mà nuôi.
Nhắc xưa sự tích mà coi,
Hai ông hiếu đức sáng soi gương vàng.
Đừng như Cao Tổ Hán hoàng,
Xem cha như thể đi đường người quen.
Thấy trong cựu sử giản biên,
Rành rành ghi chép tụng truyền dài than.
Ở đời những kể ngu ngoan,
Xin dời cựu ác cấp hoàn tân lương.
Ta nay cứ phép luân thường,
Sự thân chi đạo hết đường hiếu trung.
Cha con từ hiếu đã xong,
Lại bàn huynh hữu đệ cung dường nào.
Anh em thủ túc đồng bào,
Sinh ra kẻ trước người sau cũng là.
Tuy rằng thử thất bỉ gia,
Nhưng là đồng khí mẹ cha sinh thành.
Anh thì cho phải đạo anh,
Đã lòng hữu ái đừng tình tranh kiêm.
Em thì cho phải đạo em,
Đừng lòng khinh dị một niềm kính cung.
Cùng nhau hoà thuận khoan dong,
Trên đừng lấn át dưới không lăng loàn.
Xem nhau bằng ngọc bằng vàng,
Trong nhà đã trọng ngoài đàng chẳng khinh.
Cùng người ngộ có tương tranh,
Thì ta chẳng quản công lênh chi mà.
Khó hèn cũng chẳng nên xa,
Giàu sang thì mặc người ta đừng gần.
Thế gian lắm kẻ ngu đần,
Thấy phú thì trọng thấy bần thì vong.
Người dưng ôm ấp vào trong,
Người thân thì lại lộn trong ra ngoài.
Khinh người mà lại trọng tài,
Những người chẳng khác chi loài muông chim.
Ta nay đồng khí tương thân,
Phải suy cho biết nhân luân đạo thường.
Chữ rằng “nội huých vu tường,
Ngoại ngữ kỳ vũ” thế thường biết không?
Thuở xưa người ở quận Đông,
Cảm Diên Thọ hoá dường không tranh điền.
Minh Thành xưa có nhân hiền,
Anh em hữu ái nọ liền hoá nhau.
Ngày xưa đã có gương treo,
Luân thường soi đó mà theo sửa mình.
Đừng như Đường Thái Kiến Thành,
Anh em tứ khích tương tranh làm gì.
Lấy điều thảo thuận mà suy,
Ở cho phải đạo bỉnh di mới đành.
Chữ rằng “nghi đệ nghi huynh,
Nhất gia nhân nhượng” hoá thành thuần phong.
Lại khuyên vi đệ chỉ cung,
Lập thân phải lập nhân phong từ rầy.
Để mà tập lấy cho hay,
Biết đường luân lý xưa nay sửa mình.
Cương thường lễ nghĩa phân minh,
Thờ cha lấy hiếu thờ anh lấy tình.
Kẻo mà niên đức trưởng thành,
Măng cao khó nắn lại sinh ngoan cường.
Trong nhà đừng thấy anh thương,
Cậy quyền cha mẹ tiện đường nhông nhao.
Phải răn những tính tiêu hao,
Bây giờ chẳng dạy ngày sau khó chừa.
Có nghe câu ví đời xưa,
Dạy thì hững thuở hài đề còn thơ.
Dặn dò những kẻ tiểu nho,
Học thời phải biết quy mô đạo thường.
Vợ chồng nghĩa trọng cương thường,
Kể ra cho hết mọi đương phân minh.
Vốn xưa trời đất đã sinh,
Nhất nam nhất nữ phân minh hai người.
Cùng nhau kết bạn làm đôi,
Được sinh trai gái đời đời đài lâu.
Gửi xương gửi thịt cho nhau,
Để rầy giúp đỡ để sau cậy nhờ.
Khi nay ăn ở trong nhà,
Vợ chồng thảo thuận hiện hoà thương yêu.
Một niềm vàng ngọc nâng niu,
Đừng lời chì bấc nói nhau tiếng gì.
Chữ rằng “phu xướng phụ tuỳ,
Tình thân ân hiệp lạc kỳ tại trung”.
Suy ta là đạo làm chồng,
Ở cho nghiêm chính đừng lòng trăng hoa.
Rượu chè cờ bạc lánh xa,
Đừng mê những việc phá gia tán tài.
Tháng ngày cần kiệm sinh nhai,
Chăn lo gia sự một mai nên giàu.
Vợ chồng xem sóc thương yêu,
Chớ nên cãi cọ những tao cùng mày.
Hãy suy công nặng đức dầy,
Hai bên cha mẹ đắng cay sinh thành.
Ngay lòng mà lại sửa mình,
Tề gia đã được trị bình mới nên.
Vợ mà được kẻ khôn ngoan,
Thì ta được cậy nhiều đường vinh hoa.
Nhược bằng gặp đứa kiêu ngoa,
Thì ta phải cứ phép nhà khi nay.
Lấy điều giáo hoá cho hay,
Chẳng nên để bỏ phép rầy không dong.
Nhớ xưa lời nói Tống công,
Giàu sang cũng chẳng nên vong vợ hèn.
Chữ rằng “sự tại hồ thiên,
Phu vô phiền não thê hiền thị tai”.
Vợ là nội trợ khi nay,
Cửi canh giữ việc vá may trong nhà.
Đã sinh làm đạo đàn bà,
Giữ trong tứ đức hiền hoà ôn cung.
Thờ cha thờ mẹ thờ chồng,
Ở cho trọn đạo tam tòng chẳng sai.
Nết na phải giữ cho ngay,
Đừng nên cả tiếng ở ngoài người chê.
Trong nhà phải cẩn phòng khuê,
Trước vâng cha dạy chớ hề thảy chi.
Một niềm bổn đạo xướng tuỳ,
Việc nhà mình chớ chuyên vi thiện quyền.
Mẹ cha chú bác đôi bên,
Một niềm thành kính chẳng nên thiên vì.
Hoặc chồng khi có thị phi,
Cũng nên ẩn nhẫn giấu đi kẻo mà.
Hoặc chồng khi có rượu chè,
Đã nghe cả tiếng thì ta lánh mình.
Hoặc chồng khi động phong tình,
Gặp ngày bản mệnh thì mình xin tha.
Đàn ông tính khí sa đà,
Ngộ khi tâm dục tửu trà quên chăng.
Phòng khi ta có nhâm thần,
Giữ điều thai giáo ở ăn tinh tường.
Sinh con dung mạo phi phương,
Hơn người trí thức khác thường thông minh.
Chồng mà gặp được hiển vinh,
Thì ta cũng được sướng mình bảnh bao.
Chồng mà gặp phải khó nghèo,
Thì ta cũng phải nâng niu kính thờ.
Hãy xem Vương thị thuở xưa,
Cùng người họ Phạm quyết chờ tử sinh.
Phương Hoa cảm nghĩa Trương khanh,
Thay chồng nộp quyển đế đình vào thi.
Hai người hiền nữ xưa kia,
Rầy còn ghi chép tạc bia để truyền.
Đâu đâu nghe tiếng cũng khen,
Thuở xưa những kẻ gái hiền phải suy.
Đừng như những đứa nữ nhi,
Tranh chồng công của so kia sang giàu.
Bảo cho nhân thế xưa sau,
Đừng ai như vợ Trọng Cao bấy giờ.
Nghĩ cho phải đạo phu thê,
Trên hoà dưới thảo thuận bề gia phong.
Vợ chồng rầy đã kể xong,
Lại bàn bằng hữu giao thông như hà.
Suy người thì cũng như ta,
Của ba thứ của người ba thứ người.
Ở thì ắt phải chọn nơi,
Kết giao chọn bạn chơi bời chọn phương.
Những người trung tín hiền lương,
Thì ta kết nghĩa tiện đường giao thông.
Ở cho hữu thuỷ hữu chung,
Nghìn năm cũng quyết một lòng tử sinh.
Đừng ai phú trọng bần khinh,
Đừng nên đen bạc vong tình cựu giao.
Ở cho lý báo đào đầu,
Gần thân xa tín vậy lâu mới tình.
Chữ rằng tứ hải đệ huynh,
Kiền khôn giao hữu tâm tình giao hoan.
Thân hiền như tới nhà lan,
Lâu lâu lại thấy gió đàn hương thơm.
Thấy thiện đường có lòng thơm,
Khi xưa nước Sở lấy làm bảo trân.
Ta làm bạn với hiền nhân,
Gần đèn sáng tỏ gần son tỏ mình.
Ta làm bạn với người lành,
Dường như vũ lộ trung hành nhuận y.
Bạn cùng những kẻ ngu si,
Hình như tới bến bào ngư hôi mùi.
Bồng con tới vách mà chơi,
Ta đừng giao kết với người bất như.
Chữ rằng “thuỷ để chi ngư,
Thiên biên chi nhạn bất kỳ cao đê”.
Nhân tâm chỉ xích nan tề,
Khôn lường thiện ác khôn đề thiển thâm.
Tri nhân nhi bất tri tâm,
Vậy nên giao kết tri âm bạn hiền.
Người tiên ta lại tìm tiên,
Cũng như Quách Lý đồng thuyền xuân du.
Sông tình thuyền nghĩa mấy thu,
Nhân gian tiển kiến cộng trù khi nay.
Thuở xưa Hoà Quận, Đàm Thai,
Hai người cùng kẻ lương gia bạn hiền.
Cùng nhau đồng học thiếu niên,
Đến ngày thi đỗ cùng tên bảng vàng.
Đồng thì giàu có quan sang,
Đồng thì xe ngựa chật đàng vinh quy.
Kim lan là nghĩa cố tri,
Châu, Trần lại ước thọ kỳ vô cương.
Lại danh Thuần Lộc, Lôi Dương,
Hai người cùng kẻ thư hương con nhà.
Cùng nhau lan huệ giao ca,
Sách đèn đồng học vinh hoa đồng thì.
Đến ngày trí sĩ đồng quy,
Ngựa hồng xe tía chen đi chật đường.
Chia tay nam bắc đôi phương,
Giã nhau Thuần Lộc, Lôi Dương đều về.
Trần Trương cảm nghĩa cố tri,
Tấn, Tần lại ước đường đi cho gần.
Bạn người đã lấy làm thân,
Chàng Dương Lễ với chưng Lưu Bình.
Hai người cùng kẻ tài danh,
Cùng nhau đèn sách học hành kinh thu.
Dọc ngang bể học rừng nho,
Chàng Dương bẻ quế lăm le những ngày.
Hay đâu thi phận học tài,
Lễ thì đã đỗ tam khôi những là.
Bình thì chưa được đăng khoa,
Lễ thì thương bạn xót xa trong lòng.
Nghĩ làm một chước mưu thông,
Nhân khi Bình đến Lễ không ra chào.
Sai đồng ra hỏi người nào,
Việc chi mà được sấn vào quan gia.
Bình rằng cựu nghĩa là ta,
Lâu ngày nhớ bạn nay hoà đến chơi.
Lễ nghe bạn nói khúc nhôi,
Trong lòng thảm thiết ngoài thì dường sơ.
Gọi đồng truyền bảo bấy giờ,
Cà meo cơm hẩm dọn ra chớ chầy.
Thết Bình một bữa cho hay,
Để cho người giận mày thay đỡ lời.
Cơm này là của ông tôi,
Qua đường lỡ bữa xin xơi lót lòng.
Quan dân nhất tự cách trùng,
Bạn thì mặc bạn ngài không biết gì.
Bình nghe tức giận một khi,
Giã ơn chú lệ thiếu chi cơm cà.
Vội vàng kíp trở gót hoa,
Quyết lòng bấm chỉ trở ra kinh thành.
Lễ ta thấy cũng thương tình,
Gọi nàng Ba lại vợ mình khi nay.
Bảo nàng nàng biết cho hay,
Bình xưa vốn thực ta nay bạn hiền.
Tài thì cũng đáng khôi nguyên,
Cũng vì thất dưỡng chửa nên thân tài.
Ta làm giả chước trêu ngươi,
Trong lòng vốn thực thiết nơi thương Bình.
Rầy nghe đã tới kinh thành,
Tìm nơi đèn sách học hành quyết khoa.
Bây giờ nàng phải nghe ta,
Ban cho vàng bạc liền ra kinh thành.
Tìm nơi trú ngụ nuôi Bình,
Chuyên cần đèn sách học hành nghiên tinh.
Một mai Bình đỗ khoa danh,
Thì nàng giã chốn kinh thành hồi gia.
Nên công nuôi bạn cho ta,
Ắt là nhớ nghĩa nàng Ba muôn đời.
Qua bàn sự tích mà soi,
Song chưa nói hết mọi lời phân minh.
Sinh ra ở thế làm người,
Bạn thì phải chọn chớ nên giao càn.
Kim thời lấy cổ làm gương,
Soi mà ăn ở tiện đường kết giao.
Đã bàn bằng hữu trước sau,
Lại xem hương đảng những điều ở ăn.
Nưa kia trời đất sinh dân,
Đều thời ở thế đồng nhân một loài.
Nhưng mà chí khí hữu sai,
Thông minh ám muội trí tài hiền ngu.
Kẻ thì trí đức văn nho,
Kẻ thì ngu muội những đồ côn quang.
Kẻ thì ngu ác ngân ngoan,
Kẻ thì ngu muội những đoàn vô tri.
Làm người xử thế phải suy,
Ở trong đất nước đòi khi thuận hoà.
Xem người thì cũng như ta,
Thân sơ kính trọng trẻ già thương yêu.
Lấy điều trung tín khuyên răn,
Lấy điều nhân nghĩa mà bàn với nhau.
Hèn nghèo nên trọng sang giàu,
Mạnh thương kẻ yếu cùng nhau hoan huỳ.
Luân thường thứ tự tôn ti,
Trên đừng lấn át dưới suy kính nhường.
Đừng ai cậy ý khôn ngoan,
Lấy điều ích kỷ mà toan hại người.
Đừng ai cậy thế tiền tài,
Thấy người đói khó mà hoài rể khinh.
Giàu thì lễ nghĩa tự sinh,
Khó thì đạo tặc vật hình ư tâm.
Chữ rằng “phúc thiện hoạ dâm”,
Trời kia ở tại ốc thiềm không cao.
Nhân tình ai nấy bảo nhau,
Chớ làm việc dữ mà đau lòng lành.
Ở đừng đấu trí tương tranh,
Ở đừng sinh sự công đình làm chi.
Chữ rằng “tục dịch phong di”,
Ruộng cầy nhường cõi người đi nhường đường.
Thuận hoà đổi thói ngoan cường,
Tứ dân phong hoá thuần lương vui vầy.
Sĩ thì đèn sách hôm mai,
Ôn kinh nấu sử dùi mài nghiệp nho.
Một mai mà đỗ danh khoa,
Hàn vi đổi được vinh hoa ngày rầy.
Nghênh ngang xe ngựa tớ thầy,
Bõ công luyện tập những ngày bình sinh.
Chữ rằng “hữu chí cánh thành”,
Xưa nay đã thấy hiển vinh nhiều người.
Khuyên đừng đãng trí chơi bời,
Luống công mà lại thế cười người chê,
Nông thì cần kiệm sinh nhai,
Cầy mây cuốc nguyệt xem bề ruộng nương.
Một mai mà được giàu sang,
Trong nhà dã có dọc ngang của tiền.
Chữ rằng “đại phú do thiên”,
Kỳ như tiểu phú tất tiên do cần.
Thuở xưa Vương, Thạch nhị nhân,
Đã từng đấu phú gấm chăng hai đường.
Tiếng đồn thấu đến quân vương,
Vua liền khen thưởng hai chàng một mai.
Công thì mực thước chớ sai,
Chăm lo nghề nghiệp tháng ngày cho tinh.
Một mai nổi tiếng thơm danh,
Được vào ở chốn cung đình sửa sang.
Đi về võng giá nghênh ngang,
Tớ thầy rộn rịp họ hàng vãng lai.
Khuyên đừng mực lệch thước sai,
Bào quăn đục vẹo mà người không ưng.
Thương thì buôn bán ân cần,
Tính lời trong vốn ngoài lưng ít nhiều.
Tuỳ thời đợi giá hạ cao,
Xem chừng chợ búa ra vào ngược xuôi.
Bắc Hồ nam Việt rộng khơi,
Buồn về bán một ra mười lời thay.
Gặp thời trời giúp ta nay,
Làm nên cơ nghiệp để rầy cho con.
Xưa kia Bốc Thức cũng buôn,
Có tiền có bạc làm quan cao vì.
Bảo cho nhân thế được hay,
Các cần kỳ nghiệp chớ ai vô tình.
Chữ rằng “nhất nghệ duy tinh”,
Có ngày ắt dược thân vinh rõ ràng.
Dù ai làm được giàu sang,
Cũng nhờ phong thổ cố hương những là.
Ở cho trên thuận dưới hoà,
Đừng khoe thân thế người ta giận hờn.
Ở cho có nghĩa có nhân,
Thì trong đất nước càng tâng trọng mình.
Tiếng Sơ Quảng, Thụ, tài tình,
Hai ông trí sĩ từ kinh mà về.
Bạc tiền của cải nhiều ghê,
Đều mời làng nước rượu chè cấp cho.
Nói rằng tích của thì lo,
Chẳng bằng tích đức để cho con rầy.
Chớ ai như thể Trương Đài,
Mới vâng đạo sắc ra ngoài Thư Chu.
Nghĩ mình Đô đốc đã to,
Về làng uống rượu đặn dò hương lân.
Hôm nay còn hãy làm thân,
Ngày mai lễ cách quan dân chớ hề.
Vô tình chẳng nghĩ chẳng suy,
Làm nên phú quý bởi vì tại đâu.
Bây giờ tự trọng phú cầu,
Phụ nơi phong thổ làm kiêu với làng.
Khuyên ai làm được giàu sang,
Ở như Sơ Thụ về làng khi xưa.
Đừng như Đô đốc Thư Chu,
Thế gian còn tiếng tư ta đến rầy.
Lại khuyên ai nấy cho hay,
Lấy điều cần kiệm thuở này dưỡng gia.
Ăn chơi những thói sa đà,
Rượu chè cờ bạc lánh xa đừng gần.
Chữ rằng “bất tiếu chi nhân,
Phá gia chi tử” ai thân làm gì.
Xem người uống rượu một khi,
Say sưa điên ngộ ra chi dáng người.
Làm nhàm nói chẳng nên lời,
Mắt thì dường bạc tiếng thời như vang.
Cửa nhà phá phách tan hoang,
Bao nhiêu gà vịt những đoàn đuổi ra.
Biết chi khôn dại nữa mà,
Còn chi lễ nghĩa mà ta khuyên bàn.
Thuở xưa Quý Bố làm quan,
Hà Đông thái thú vua toan chiêu về.
Cho làm Ngư sử đòi khi,
Nhân vì mê rượu người ghê không gần.
Ta nên lấy rượu làm răn,
Sinh ra cờ bạc của rừng tan đi.
Tập nghề đánh bạc làm chi,
Những người hay đánh đã thì hơn ai.
Đêm nghe chó sủa hơi hơi,
Ngồi vênh tai chuột lắng nơi xa gần.
Tức thì trỏ nẻo đè chừng,
Dò đi ắt đến rạng đông mới về.
Ngày ngồi dở tỉnh dở mê,
Nghĩ toan chốn nọ nơi kia kiếm tiền.
Ruộng nương cầm bán hoang thiên,
Bất kỳ cao hạ được tiền thì thôi.
Rủ nhau đi lĩnh nợ người,
Bất kỳ nặng nhẹ mấy lời cũng vay.
Áo quần rách rưới tả tơi,
Trong nhà rây rứt bề ngoài cười chê.
Được thì rượu rượu chè chè,
Kẻ anh người chú đều chìa tay xin.
Thua thì đỏ đỏ đen đen,
Rủ nhau đem của đổ miền sông Ngô.
Những người chức cả quyền to,
Đã ngồi đám bạc cũng trò con đen.
Bàng công thơ chép để truyền,
Có câu suy bại nhỡn tiền đa nhân.
Trách thay nhà thổ quá chừng,
Làm chi những việc mình mừng người lo.
Dù mà muốn dựng cơ đồ,
Đóng tầu vượt bể buôn Ngô bán Lào,
Của làm ra ắt được lâu,
Tiền tài gá thổ trời đâu cho giàu.
Được là vào trước ra sau,
Phù vân của ấy được lâu bao giờ.
Chữ rằng “hại chúng thành gia,
Cửu trường phú quý” thời ra không trời.
Tệ thay những kẻ đánh bài,
Một anh đã dại ba người không khôn.
Nghe ai cơm trắng rượu ngon,
Rủ nhau giả sự chơi xuân tìm vào.
Đua tài kẻ thấp người cao,
Đem nhau đều đút tay vào cạm thôi.
Tuy rằng nói chỉ đánh chơi,
Thực là đem của cho người vô công.
Tan bàn trầu hết rượu không,
Thấp cao đều đổ vào trong lọ hồ.
Ngồi không mua việc mà lo,
Tỉnh ra mới biết thực đồ tệ thay.
Bảo cho những kẻ ở đời,
Muôn nghìn bài bạc chớ chơi làm gì.
Lại rằng những kẻ đánh cờ,
Danh tuy đồng lạc thực là tương sai.
Chăm chăm cờ bạc mấy người,
Tranh nhau thắng phụ đua tài thấp kiêu.
Hay chi nghề ấy mà theo,
Lao tâm vả lại thêm điều mất công.
Ở đời nhất sĩ nhì nông,
Tứ thương lại có tam công những nghề.
Tìm nơi sinh lợi nọ kia,
Người ta mới kể nam nhi lương lài.
Còn như những việc đánh bài,
Đánh cờ vô ích làm người phải răn.
Ngô vương thất lễ bất triều,
Bởi vì bác cục thấp kiêu chẳng nhường.
Việc xưa kể đã tỏ tường,
Ta nay lấy đó làm gương sửa mình.
Truyện này sau trước phân minh,
Lấy trong hiền truyện thánh kinh dẫn bày.
Lại đem danh tích xưa nay,
Để mà chứng thực cho người được suy.
Kẻo mà nhân thế còn nghi,
Tưởng lời ta nói có khi mô hồ.
Ta đây cũng kẻ văn nho,
Bây giờ nhĩ thuận niên du lục tuần.
Dại khôn mình cũng đã từng,
Phải chăng nay cũng đã nhuần tính xưa.
Làm lời ca huấn bây giờ,
Để mà dạy bảo ngu sơ những người.
Hay chăng xin chớ ai cười,
Làm ra chuyện ấy để đời âu ca.
Ai xem cũng nhớ đến ta,
Gọi là cũng tiếng con nhà văn thư.
Dặn người nhân thế bây giờ,
Ai mà miệng đọc lòng suy cho tường.
Đường ai tháng thốt bàng hoàng,
Đọc không suy kỹ biết đường chi đâu.
Có thơ đã chép trên đầu,
Đọc thì xuôi xuống lại hầu xem lên.
Cứ trong thư tịch thánh hiền,
Mỗi lời sự tích ta truyền để đây.
Đọc ra mới hiết sự hay,
Suy ra mới biết những tay chép truyền.
Chữ rằng thiên tử vạn niên,
Bút hoa lược ký tụng truyền nghìn thu.