Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Đình Chiểu » Ngư Tiều y thuật vấn đáp
Đăng bởi Vanachi vào 12/11/2005 17:54
Tiều rằng: Trước đạo hữu truyền,
Năm tạng, sáu phủ, lệ biên đủ chừng
Tuy rằng bệnh, mạch rõ phân,
1720. Chỉ ư cùng thực chưa từng biện minh.
Môn rằng: Người chịu khí sinh,
Ốm, gầy, béo, chắc, vóc hình khác nhau.
Vậy nên tạng phủ chịu đau,
Chứng hư, chứng thực lố màu tựa như.
1725-Thực là khí thịnh có dư,
Hư là bất túc, lừ đừ ốm o.
Can thực thời hay giân lo,
Hai tròng mắt đỏ, nét co sảy sần.
Can hư dưới nách giựt gân,
1730. Móng tay khô biếc, phăn phăn ê hoài,
Tâm thực thời mừng cười dai,
Nhức trong cánh nách, xuống dài hông đau.
Tâm hư sợ sệt lao chao,
Cứng trong gốc lưỡi, mặt sầu thương lo.
1785. Tỳ thực thời bụng đầy no,
Nặng nề mình mẩy, mỏi giò, lộ hung.
Tỳ hư bốn vóc chảng dùng,
Ít ăn, nhiều ỉa, ẩu lung, ruột lồi.
Phế thực thời suyễn ho đồi,
1740. Vai lưng vế nhức, buồn hôi ra dầm.
Phế hư hơi thở vắn trầm,
Miệng khô mũi nhức rên ngâm mạc hình.
Thận thực thời dạ trướng bành,
Đái vàng, ỉa rót, thủng hình, mặt thâm.
1745. Thận hư lạnh lẽo như dầm,
Lưng co đau nhức ầm ầm tai kêu.
Chứng trong năm tạng chẳng đều,
Bệnh ngoài sáu phủ cũng nêu khác chừng.
Đảm thực thời khí mộc hừng,
1750. Trong minh hồi hộp ngập ngừng chẳng an.
Đảm hư hay ẩu nước toan,
Đắng mồm nhăn nhò, mơ màng luống nghi.
Tiểu trường thực ắt hoả suy,
Nóng khô khát uống, dưới đì nhỉ vung.
1755. Tiểu trường hư ắt lạnh lùng,
Mấy lèo ruột nhỏ hơi sùng sục đau,
Vị là chỗ chứa cơm rau,
Thực thời bụng nhảy, no trào hơi nhăng.
Vị hư cơm chẳng chịu ăn,
1760. Ẩu lên hôi hám, ỉa rằng chẳng tiêu.
Đại trường thực khí kim nhiều,
Ruột như dao cắt chín chiều quặn đau.
Đại trường hư, ắt trống sau,
Khách hàn vào ngụ, làm no ỉa liền.
1765. Bàng quang thực khí nước truyền,
Nóng ran khát uống, đan điền mếch chưng.
Bàng quang hư át lạnh dần,
Bào trơn đái láo không chừng chảy tuôn.
Tam tiêu là phủ hơi luồn,
1770. Uống ăn, tiêu hoá, nhờ luồng ba hơi.
Thực thời da sủi sững hơi,
Đái vàng, ỉa bón, là nơi thăm chừng.
Hư thời ngôi trống, hàn ngưng,
Đái xót, ỉa bón, ăn ngừng, chậm tiêu,
1775. Chứng đau hư, thực chẳng đều,
Bởi nơi tạng phủ bệnh nhiều khác nhau.
Hợp chia bệnh mới, bệnh lâu,
Bệnh già, bệnh trẻ, gan cầu thực hư,
Lâu cùng già ấy, nhiều hư,
1780-Mới mà trẻ ấy, thực dư hơi tà.
Rẽ phân biểu lý chia ra,
Hoặc hàn, hoặc nhiệt ở ta xét bàn.
Tóm câu biểu, lý, nhiệt, hàn,
Chẳng qua hư, thực nẻo đàng ấy thôi.
1785. Một lời ta dón ngươi ôi!
Thực thời tả thực, hư rồi bổ hư,
Dẫu lầm chứng thực làm hư,
Chứng hư làm thực khôn từ lỗi ngươi
Thực, hư, thầy thuốc giết người,
1790. Độc hơn ôn dịch bắt tươi oan hồn.
Nào lời đạo hữu dạy khôn,
Trong ngoài tạng phủ, phải dồn sánh coi.
Sánh coi tật bệnh mở mòi,
Đến khi trị liệt lại soi mạch hình.
1795. Trong, ngoài, hư, thực tỏ tình,
Mặc dầu đối chứng phẩm bình thuốc thang,
Bổ hư xưa đã sẵn phương,
Chỉn e tả thực lắm đường sai ngoa.
Các kinh đều có hoả tà,
1800. Thuốc đi hỗn nghịch gây ra sự loàn,
Bùa linh thầy vẽ rõ ràng,
Cầm coi các đạo cứu an hoả tà:
Chư dược tả chư kinh chi hoả tà
(Các vị thuốc trị hoả tà ở các kinh mạch)
Dịch nghĩa:
Hoàng liên trị hoả tà ở tim,
Chi tử, Hoàng cầm trị hoả tà ở phổi,
Bạch thược trị hoả tà ở lá lách,
Sài hồ, Hoàng liên trị hoả tà ở gan và mật.
Tri mẫu trị hoả tà ở thận,
Mộc thông trị hoả tà ở ruột non.
Hoàng cầm trị hoả tà ở ruột già,
Sài hồ, Hoàng cầm trị hoả tà ở tam tiêu.
Hoàng bá trị hoả tà ở bọng đái.