143.86
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn
1 người thích

Một số bài cùng tác giả

Đăng bởi Vanachi vào 27/07/2005 13:09

Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi:
“Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi,
“Quan Âm thuở trước nói chi,
“Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
“Đã đành đá nát vàng phai,
“Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau?”
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: “Ai ở trong nhà,
“Đường về quan ải chỉ ra cho cùng.”
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão bà lật đật hỏi chào:
“Ở đâu mà tới rừng cao một mình?”
1821. Vân Tiên mới nói sự tình:
“Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
“Đem binh giẹp giặc Ô qua,
“Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây.”
Lão bà nghe nói sợ thay:
“Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già.”
Vân Tiên ngồi nhắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: “Bức ấy tượng chi,
“Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
1831. “Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
“Lão bà khá nói tính danh cho tường.
Lão bà chẳng dám lời gian:
“Tượng nầy vốn thiệt chồng nàng ngồi đây.”
Tiên rằng nàng xích lại đây,
“Nói trong tên họ tượng nầy ta nghe.”
Nguyệt Nga lòng rất kiên dè,
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
1841. Rằng sao nàng chẳng nói đi,
“Hay là ta hỏi động chi chăng là?”
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
“Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
“Chàng đà về chốn cửu tuyền.
“Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng.”
Vân Tiên nghe nói hỏi phăng:
“Chồng là tên ấy vợ là tên chi?”
Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay,
1851. Thưa rằng: “May gặp nàng đây,
“Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
“Để lời thệ hải minh sơn,
“Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
“Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
“Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ.”
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ,
Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng: “Đã thiệt tên ngài,
“Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua.”
1861. Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc oà như mưa.
Ân tình càng kể càng ưa,
Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xảy nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
1871. Minh rằng: “Tẩu tẩu ở đâu,
“Cho em ra mắt chị dâu thế nào?
Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: “Tưởng chị ở Phiên,
“Quyết đem binh mã qua miền Ô qua.
“May đâu sum hiệp một nhà.”
“Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào.”
Tiên rằng nàng tính thế nào?”
Nàng rằng: “Anh hãy về trào tâu lên.
1881. “Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
“Lệnh tha tội trước mới nên về nhà.”
Trạng nguyên từ giã lão bà,
Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày:
“Ta về đem bức tượng nầy,
“Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà.”
Tiên, Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại triều ca đề huề.
Sở vương nghe trạng nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.
1891. Sở vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng ngài trạng nguyên,
Phán rằng: “Trẫm sợ nước Phiên,
“Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
“Nay đà trừ Cốt Đột xong,
“Thiệt trời sinh Trạng giúp trong nước nhà.
“Phải chi trước có Trạng ra,
“Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ.”
Lệnh truyền mở yến trào đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô qua rồi.
1901. Trạng nguyên quỳ tấu một hồi.
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng,
Phán rằng: “Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
“Chẳng ngờ nàng với Trạng nguyên,
“Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu.”
Thái sư trước bệ quỳ tâu:
“Ô qua dấy động qua mâu cũng vì.
“Trá hôn oán ấy nên gây,
“Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân.”
1911. Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng;
“Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa,
“Thái sư trước chẳng lo lừa,
“Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
“Dầu cho nhật nguyệt rõ ràng,
“Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.
“Ngay gian sao cũng có trời,
“Việc nầy vì trẫm nghe lời nên oan,
1921. Trạng nguyên tâu trước trào đàng.
“Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
“Trịnh Hâm là đứa gian tà,
“Hại tôi buổi trước cũng đà ghê phen.”
Sở vương phán trước bệ tiền:
“Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi.
“Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
“Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng.
“Hán xưa có gã Đổng công,
“Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.
1931. “Đời xưa tôi nịnh biết bao,
“Thái sư nay cũng khác nào thời xưa.
“Thấy người trung chính chẳng ưa,
“Rấp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
“Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
“Ấy là mới hết người sau gian tà.”
Sở vương phán trước trào ca,
Thái sư cách chức về nhà làm dân,
Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
1941. Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,
Trẫm cho phục chức làm quan Đông thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã thành,
Kiệu trương tán phụng cho đành vinh hoa.
Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu, đều vui, đều cười.
1951. Trạng nguyên mới hỏi một lời:
“Trịnh Hâm tội ác các người tính sao?”
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh,
Minh rằng: “Ai mượn kêu anh?
“Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
“Kéo ra chém quách cho rồi,
“Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan.”
Trực rằng: “Minh nóng nói ngang,
“Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi.
1961. “Xưa nay mấy đứa vô nghì,
“Dầu cho có sống làm gì nên thân?”
Hâm rằng: “Nhờ lượng cố nhân,
“Vốn em mới dại một lần xin dung.
Trạng rằng: “Hễ đứng anh hùng,
“Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
“Thôi thôi ta cũng rộng suy,
“Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.
Hâm rằng: “Khỏi giết rất vui,”
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
1971. Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như về thịt trâu.
Hớn Minh, Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
Một ngươi Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn mình vì máu dê.
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông thành.
1981. Võng điều, gươm bạc, lọng xanh,
Trạng nguyên, Tử trực, Hớn Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
1991. Của đi khuyến giáo mấy năm,
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
Còn đương thơ thẩn vào ra Đại đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc, lo bề tế riêng:
“Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
“Thảo tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay.”
Đọc văn nhớ tới châu mày,
Đôi hàng luỵ ngọc tuôn ngay ròng ròng.
2001. Người ngay Trời Phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền.
Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng:
“Ông nầy sao giống Vân Tiên cũng kỳ?
“Ông nào mất xuống âm ti,
“Ông nào còn sống nay thì làm quan?”
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
“Phải ngươi Đồng tử mắc nàn chốn ni?”
2011. Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn.
“Ai dè còn thấy bổn quan,
“Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi.”
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum hiệp tại nơi Đại đề.
Tuần du phút đã gần kề Hàn giang.
Võ Công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
2021. Mẹ con những mảng lo âu,
Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân tình,
Phải ra đón rước lộ trình hoạ may.
Loan rằng: “Mình ở chẳng hay,
“E người còn nhớ những ngày trong hang.”
Trang rằng: “Con có hồng nhan,
“Cho chàng thấy mặt thời chàng cũng ưa.
“Ví dầu còn nhớ tích xưa,
“Mẹ con ta lại đổ thừa Võ Công,”
2031. Cùng nhau bàn luận đã xong.
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên.
Nay đà tới thứ Trạng nguyên,
Hàn giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng, châu báu, áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ơn ngư, tiều,
Ngư, tiều nay đặng danh bàu,
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
2041. Trang rằng: “Tưởng chữ hôn nhân,
“Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên.
“Võ Công đã xuống huỳnh tuyền,
“Xin thương lấy chút thuyền quyên phận nầy.”
Trạng rằng: “Bưng bát nước đầy,
“Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
“Oan gia nợ ấy trả xong.
“Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi.”
Hớn Minh, Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: “Hoa khéo làm mồi trêu ong.
2051. Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
“Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
“Ca ca sao chẳng chịu đi.
“Về cho tẩu tẩu để khi xách giày.”
Mẹ con đứng thẹn thuồng thay,
Vội vàng cúi lạy chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương tòng
2061. Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết ngãi sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp, tiếng còn bia danh.
Trạng nguyên về đến Đông thành,
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
2071. Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời.