Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Đình Chiểu » Lục Vân Tiên
Đăng bởi Vanachi vào 26/07/2005 12:59
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này?”
Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay,
“Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
141. “Trong xe chật hẹp khôn phô,
“Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng.”
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la.
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
“Nàng là phận gái, ta là phận trai.
“Tiểu thư con gái nhà ai,
“Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ.
“Chẳng hay tên họ là chi?
“Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
151. “Trước sau chưa hãn dạ nầy,
“Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?”
Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
“Con này tỳ tất tên là Kim Liên.
“Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
“Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
“Sai quân đem bức thư về,
“Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
“Làm con đâu dám cãi cha,
“Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!
161. “Chẳng qua là sự bất bình,
“Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
“Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
“Trước xe quân tử tạm ngồi,
“Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
“Chút tôi liễu yếu đào thơ,
“Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
“Hà Khê qua đó cũng gần,
“Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
171. “Gặp đây đương lúc giữa đàng,
“Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
“Ngẫm câu báo đức thù công,
“Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.”
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
“Này đà rõ đặng nguồn cơn,
“Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
“Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
181. “Đó mà biết chữ thuỷ chung,
“Lựa là đây phải theo cùng làm chi.”
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
“Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?”
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha:
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
“Họ là Lục thị, tên là Vân Tiên.”
191. Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
“Xin đưa một vật để cầm làm tin.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na:
“Vật chi một chút gọi là,
“Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
“Của này là của vất vơ,
“Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành!”
201 Vân Tiên khó nổi làm thinh,
Chữ ơn buộc lại chữ tình lây dây.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
“Ơn kia đã mấy, của nầy rất sang.
“Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
“Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
“Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
“Nào ai chịu lấy của ai làm gì.”
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
“Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
211. “Ai dè những đấng anh hùng,
“Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm.”
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm!
“Vô duyên chi mấy ai cầm mà mơ?
“Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
“Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ.”
Vân Tiên ngó lại rằng: “Ừ,
“Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu.”
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
221. “Thơ rồi này thiếp xin dâng,
“Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào?”
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao bực nầy.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ, cũng tày Từ phi.
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân Tiên hoạ lại một bài trao ra.
231 Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hoà vận điểu, điểu hoà vận mai.
Có câu xúc cảnh hứng hoài,
Đường xa vọi vọi, dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi thanh86 ngày 17/12/2011 05:46
theo http://nguyentuyet.violet...try/show/entry_id/4403092 thì:
Các bản Nôm khắc in ở Hà Nội và bản Trương Vĩnh Ký đều không có bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ Hán sau câu 222.
Bản Bảo Hoa các Quảng Thạnh Nam phát thụ đã chép rằng:
遂 車 千 里 急 奔 行
撞 遇 风 來 奪 路 呈
淑 女 臨 危 無 脱 免
君 子 幸 逢 展 平 生
兩 字 恩 情 難 分 解
半 途 苦 料 量 何 成
請 來 回 慣 由 嚴 母
照 有 文 書 显 聲 名
Phiên âm:
Toại xa thiên lý cấp bôn hành,
Tràng ngộ Phong Lai đoạt lộ trình.
Thục nữ lâm nguy vô thoát miễn,
Quân tử hạnh phùng triển bình sinh.
Lưỡng tự ân tình nan phân giải,
Bán đồ khổ liệu lượng hà thành.
Thỉnh lai hồi quán do nghiêm mẫu,
Chiếu hữu văn thư hiển thanh danh.
Chúng tôi xin tạm dịch là:
Một chiếc xe đi gấp dặm ngàn,
Phong Lai đâu gặp cướp trên đàng.
Lâm nguy thục nữ không ngờ thoát,
Hạnh ngộ anh hùng cứu đặng an.
Hai chữ ân tình khôn giãi tỏ,
Nửa đường tâm sự tính sao đang.
Xin mời về phủ trình cha mẹ,
Hẳn có thư truyền tiếng vẻ vang.
(N.Q.T. dịch)
Bài thơ chữ Hán ấy vừa thất niêm, vừa thất luật nên chắc chắn không phải do Nguyễn Đình Chiểu đã làm ra mà có thể do Duy Minh Thị khi hiệu đính đã thêm vào.
Về sau đến năm 1874, thấy bài thơ bị thất niêm thất luật như vậy, Duy Minh Thị đã sửa lại là:
駢 車 千 里 一 身 輕
撞 遇 风 來 半 路 程
已 料 危 難 無 自 脱
幸 逢 賑 救 得 餘 生
恩 情 兩 字 心 何 解
報 答 千 般 意 未 平
欲 請 恩 人 歸 故 里
回 詳 父 母 得 詳 明
Phiên âm:
Biền xa thiên lý nhất thân khinh,
Tràng ngộ Phong Lai bán lộ trình.
Dĩ liệu nguy nan vô tự thoát,
Hạnh phùng chẩn cứu đắc dư sinh.
Ân tình lưỡng tự tâm hà giải,
Báo đáp thiên ban ý vị bình.
Dục thỉnh ân nhân qui cố lý,
Hồi tường phụ mẫu đắc tường minh.
Chúng tôi tạm dịch là:
Một xe song mã nhẹ băng ngàn,
Bỗng gặp Phong Lai ở giữa đàng.
Đã tưởng nguy nan không cách thoát,
Nào ngờ giải cứu được thân toàn.
Ân tình hai chữ lòng sao gỡ,
Báo đáp nghìn phương ý chửa đang.
Muốn thỉnh ân nhân về cố lý,
Thưa cùng cha mẹ được am tường.
(N.Q.T. dịch)