Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Tây Sơn
2 bài trả lời: 2 bản dịch
1 người thích
Từ khoá: tuyết (87) thơ đi sứ (851)

Đăng bởi Hiền Tư vào 18/02/2024 09:44, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Hiền Tư vào 22/02/2024 19:22

雪月疑賦

一色紛紛,吾不知其何為兮,宵歟晨。
吾欲觀太虛兮,長庚與啟明而俱泯。
指前山而拭瞻兮,草樹堆白以輪囷。
豈長夜之未央兮,胡為乎鳥聲約略相聞。
將清晨之初稀兮,胡為乎板橋敻不見人。
予有疑乎雪月兮,喚輿者而咨詢。
乃殊離之不辨兮,手指口而云云。
行獨會於予心兮,宇宙洪荒之未分。
下誰為川岳兮,上誰為星雲。
中以何狀而為物兮,以何形而為人。
又何為上中下兮,使各類聚而群分。
是理底倥侗兮,是氣底渾淪。
何名利之相逐兮,孰為疏而為親。
何送迎之相煩兮,孰為偽而為真。
自舟車之既陳兮,彼為猫而此為獯。
既矛戟之相燖兮,乃玉帛之相鄰。
始有萬千里之修途兮,重三譯而策驊駰。
苟人迹之所到兮,皆可履青霜而踏紅塵。
又何疑夫雪月兮,計較夫深宵之與大昕。
願長康乎此身兮,效蘧車之轔轔。
幸諮諏之無咎兮,期少答夫洪均。
賦蓮社之歸來兮,囂囂然希莘野之天民。

 

Tuyết nguyệt nghi phú

Nhất sắc phân phân, ngô bất tri kỳ hà vi hề, tiêu dư thần,
Ngô dục quan thái hư hề, Trường Canh dữ Khải Minh nhi câu dân.
Chỉ tiền sơn nhi thức chiêm hề, thảo thụ đôi bạch dĩ luân khuân.
Khởi trường dạ chi vị ương hề, hồ vi hồ điểu thanh ước lược tương văn.
Tương thanh thần chi sơ hi hề, hồ vi hồ bản kiều quýnh bất kiến nhân.
Dư hữu nghi hồ tuyết nguyệt hề, hoán dư giả nhi tư tuân.
Nãi thù ly chi bất biện hề, thủ chỉ khẩu nhi vân vân.
Hành độc hội ư dư tâm hề, vũ trụ hồng hoang chi vị phân.
Hạ thuỳ vi xuyên nhạc hề, thượng thuỳ vi tinh vân.
Trung dĩ hà trạng nhi vi vật hề, dĩ hà hình nhi vi nhân.
Hựu hà vi thượng trung hạ hề, sử các loại tụ nhi quần phân.
Thị lý để không đồng hề, thị khí để hỗn luân.
Hà danh lợi chi tương trục hề, thục vi sơ nhi vi thân.
Hà tống nghênh chi tương phiền hề, thục vi nguỵ nhi vi chân.
Tự chu xa chi ký trần hề, bỉ vi Miêu nhi thử vi Huân;
Ký mâu kích chi tương tầm hề, nãi ngọc bạch chi tương lân...
Thuỷ hữu vạn thiên lý chi tu đồ hề, trùng tam dịch nhi sách hoa nhân,
Cẩu nhân tích chi sở đáo hề, giai khả lý thanh sương nhi đạp hồng trần.
Hựu hà nghi phù tuyết nguyệt hề, kế giảo phù thâm tiêu chi dữ đại hân.
Nguyện trường khang hồ thử thân hề, hiệu Cừ xa chi lân lân.
Hạnh tư tưu chi vô cữu hề, kỳ thiểu đáp phù hồng quân.
Phú Liên xã chi quy lai hề, hiêu hiêu nhiên hy Sằn dã chi thiên dân.


Lời tự: “Phụng sứ thì tác” 奉使時作 (Làm khi đi sứ).

Bài phú này được Ngô Thì Nhậm sáng tác trong thời gian đi sứ phương Bắc. Theo nguyên văn chữ Hán, bài phú có hai mươi ba vần.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Ngô Linh Ngọc

Lẫn lộn một màu, ta chẳng nhận ra chừ, sớm tối hay đâu!
Ta muốn nhìn xem bầu không chừ, sao Hôm, sao Mai đã lặn rồi, từ lâu!
Trỏ rặng núi trước mặt mà trông lên chừ, cây cỏ thành gò, tròn vạnh mà trắng phau.
Há lẽ đêm dài chưa tắt chừ, sao phảng phất tiếng chim kêu?
Hay bình minh đã hửng chừ, sao không bóng người in trên cầu?
Ta nghi ngờ chẳng rõ tuyết hay trăng chừ, bèn gọi hỏi người đánh xe;
Nhưng tiếng nói lạ tai khó hiểu chừ, tay trỏ miệng mà líu lô.
Ta vừa đi, vừa tự hiểu lấy chừ, buổi hỗn mang ban đầu,
Ở dưới, ai tạc lên núi sông chừ, ở trên ai bày ra trăng sao?
Ở giữa, muôn vật đúc nên theo trạng gì chừ, nặn ra người theo hình nào?
Lại vì sao chia giữa, dưới, trên chừ, khiến họp lại thành từng loài khác nhau?
Cái lẽ đó thật mập mờ chừ, cái khí ấy hỗn độn sao!
Sao lợi danh cứ mãi đua ganh chừ, thân sơ nào biết đâu!
Sao đón đưa làm phiền phức nhau chừ, thật giả biết người nao?
Từ thuở thuyền, xe sinh ra chừ, mới phân biệt đó nơi Huân, đây giống Miêu;
Đã gươm đao giết hại lẫn nhau chừ, lại ngọc, lụa để hoà giao!
Để có con đường muôn dặm sứ Hoa chừ, dịch tiếng nói ba lần, nhoài vó câu!
Dấu chân người đến nơi đâu chừ, đều dẫm lên sương sớm, mà đạp lên bụi đào;
Vậy nghi trăng, ngờ tuyết mà chi chừ, sá kể gì ngày sáng với đêm thâu!
Chỉ mong thân này mãi được khang cường chừ, xe họ Cừ học ruổi mau.
Việc ứng đối may chẳng sai lầm chừ, muôn một đáp ơn sâu;
Rồi vịnh bài phú “Xóm hoa sen”, làm người dân lành quay về chừ, cày nội Sằn vui biết bao.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Duy Vôn

Lờ mờ một màu, tôi chưa hiểu chừ trời đã sáng hay đêm còn lâu!
Tôi muốn xem vòm trời chừ, thì sao Kim cùng sao Mai không thấy đâu.
Trỏ núi trước mà nghển trông chừ, cỏ cây như chiếc cồn quanh co mà trắng phau.
Há đêm dài chưa canh ba chừ, sao còn nghe tiếng chim văng vẳng gắt gao?
Hay là trời vừa sáng chừ, sao bóng người còn vắng ngắt chưa qua cầu?
Tôi có nghi ngờ là tuyết trắng hay trăng chừ, gọi mà hỏi chàng dư phu.
Thì hắn líu lo không rõ chừ, tay trỏ miệng mà nói những câu…
Vừa đi, lòng tôi tự nghĩ chừ, trời đất trước khi còn hỗn độn một bầu,
Ở dưới gì là sông núi chừ, ở trên gì là trăng sao du?
Ở giữa lấy dáng gì làm vật chừ, lấy hình gì làm người du?
Lại là sao có trên, dưới, giữa chừ, khiến cho các sự vật chia rẽ nhau.
Lí đó vẫn lơ mơ chừ, khó đó vẫn mịt mù;
Danh lợi gì cùng theo đuổi chừ, đâu là thân mà đâu là sơ âu?
Đưa đón gì cùng phiền luỵ chừ, đâu là chân mà đâu là nguỵ âu?
Từ khi có thuyền có xe giao thông chừ, kia mới là Huân mà đây là Miêu.
Đã có giáo mác cùng theo rõi chừ, rồi mà ngọc lụa tiếp theo sau.
Mới có con đường xa xa muôn dặm chừ, trải ba lần dịch tiếng mà rồi dong duổi vó câu.
Dấu chân người đã qua chừ, đạp sương tan mà giầy bụi sạch lầu.
Lại còn nghi ngờ gì trăng tuyết chừ, bàn cãi sáng rồi hay đêm còn sâu.
Thân này mong sao mạnh luôn chừ, học xe ông Cừ bon bon không chậm không mau.
Hoạ may việc giao hảo được tốt chừ, để đền đáp trời cao.
Phú bài trở về Liên xã chừ, mong như vị thiên dân ở bãi Hữu Sần tự do tiêu dao!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời