途中見杏花

一枝紅杏出牆頭,
牆外行人正獨愁。
長得春來猶有恨,
可堪逢處更難留。
林空色暝鶯先到,
春淺香寒蝶未遊。
更憶帝鄉千萬樹,
澹煙籠日暗神州。

 

Đồ trung kiến hạnh hoa

Nhất chi hồng hạnh xuất tường đầu,
Tường ngoại hành nhân chính độc sầu.
Trường đắc xuân lai do hữu hận,
Khả kham phùng xứ cánh nan lưu.
Lâm không sắc minh oanh tiên đáo,
Xuân thiển hương hàn điệp vị du.
Cánh ức đế hương thiên vạn thụ,
Đạm yên lung nhật ám Thần châu.

 

Dịch nghĩa

Một cành hoa hạnh đỏ vươn lên đầu tường,
Người đi đường bên ngoài bức tường đang có nỗi buồn cô đơn.
Xuân đến đã lâu nhưng vì lòng còn sầu hận,
Nên không thể ở nán nơi gặp hoa hạnh này.
Sắc rừng đã về chiều, chim oanh bay về trước nhất,
Vẻ xuân còn non, hương xuân lạnh nên bướm chưa chịu tới chơi.
Càng làm nhớ kinh đô với ngàn vạn thứ cây,
Khói mờ che mặt trời Thần châu.


Tác giả làm quan trong triều, được lệnh đi công tác ngoài kinh đô, đang buồn vì phải xa nhà, gặp hoa hạnh trên đường đi nên viết bài này.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Vượt đầu tường một cành hạnh đỏ
Người đi đường đang có nỗi buồn
Xuân về nhưng dạ còn hờn
Nên không thể nán lâu hơn chỗ này
Sắc rừng chiều oanh bay về sớm
Xuân còn non nên bướm chưa chơi
Nhớ kinh cây có vạn loài
Khói mờ che khuất mặt trời Thần châu

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Một cành hạnh đỏ vươn đầu tường,
Lữ khách buồn đơn bên bức tường.
Xuân đến đã lâu lòng uất hận,
Nên không thể gặp hạnh hoa vương.
Sắc rừng chiều xuống oanh về trước,
Xuân lạnh chẳng chơi bướm ngửi hương.
Càng nhớ kinh đô cây vạn thứ,
Thần châu mặt nhật khói mờ vươn.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời