御製聖緣寺瞻禮八韻

殘缺昔幾盡,
莊嚴今一新。
祥光凝寶相,
慧日炫金身。
背倚翠花嶠,
面臨小海濱。
松關花笑客,
石徑鳥迎人。
磬韻穿林響,
經聲蹺樹頻。
幽巖應勝畫,
妙景可夷神。
叩祝祈慈壽,
禱求福子民。
敢云能後述,
但得闡前因。

 

Ngự chế “Thánh Duyên tự chiêm lễ bát vận”

Tàn khuyết tích cơ tận,
Trang nghiêm kim nhất tân.
Tường quang ngưng bảo tướng,
Tuệ nhật huyễn kim thân.
Bối ỷ Thuý Hoa kiệu,
Diện lâm Tiểu Hải tân.
Tùng quan hoa tiếu khách,
Thạch kính điểu nghinh nhân.
Khánh vận xuyên lâm hưởng,
Kinh thanh khiêu thụ tần.
U nham ưng thắng hoạ,
Diệu cảnh khả di thần.
Khấu chúc kỳ từ thọ,
Đảo cầu phúc tử dân.
Cảm vân năng hậu thuật,
Đãn đắc xiển tiền nhân.


Bài thơ được khắc trên văn bia chùa Thánh Duyên toạ lạc trên núi Thuý Vân, gần cửa biển Tư Hiền cách thành phố Huế khoảng 40km về phía nam. Chùa do vua Minh Mạng (1820-1840) vẽ kiểu xây dựng, khánh thành vào mùa xuân năm Đinh Dậu (1837).


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Dấu xưa tàn hỏng cả,
Chùa mới đã dựng xong.
Tượng báu mây lành phủ,
Thân vàng ánh tuệ phong.
Sau lưng sườn núi tựa,
Trước mặt bến đầm trông.
Đón khách, chim đường đá,
Đưa người, hoa cửa thông.
Khánh ngân vang núi thẳm,
Kinh đọc quyện cây đồng.
Non vắng xanh tươi vẻ,
Cảnh xinh khoan khoái lòng.
Mẹ già cầu thọ mãi,
Con đỏ hưởng ơn chung.
Dày dặn nhân xưa đó,
Thân này dám kể công!

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Tích xưa tàn hỏng cả rồi,
Trang nghiêm chùa mới trên đồi dựng xong.
Mây lành tượng báu phủ trong,
Thân vàng rực ánh tuệ phong toả bừng.
Sườn non chùa tựa sau lưng,
Đầm thông trước mặt biển trông Tư Hiền.
Đưa người, hoa cửa thông liền,
Khách chờ đường đá tắt quyên kêu rù,
Khánh ngân vang núi thẳm mù,
Quyện cây Kinh đọc đồng thu nhiều lần.
Vẻ xanh non vắng tươi ngần,
Cảnh xinh khoan khoái lòng dân lòng trời.
Mẹ già cầu thọ mãi thôi,
Con dân được hưởng ơn trời cầu chung.
Nhân xưa dày dặn đó cùng,
Thân này dám kể công mừng chúng dân!

Chưa có đánh giá nào
Trả lời