Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Lương Ngọc Quyến 梁玉狷 (1885 - 5/9/1917) hiệu Lương Lập Nham, là một chí sĩ Việt Nam thời cận đại, sớm chịu ảnh hưởng tư tưởng canh tân của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu (Trung Quốc) rồi theo đuổi áp dụng ở Việt Nam. Quê gốc của ông là làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội ngày nay. Ông sinh ra tại Hà Nội trong một gia đình khoa cử khá giả, là con thứ của chí sĩ Lương Văn Can.
Tháng 10-1905, ông cùng em ruột là Lương Nghị Khanh hưởng ứng Phong trào Đông Du, sang Nhật Bản du học. Ông được Phan Bội Châu gửi học ở Trường Chấn Vũ, tốt nghiệp loại ưu vào cuối 1908. Thời gian này ông tham gia vào Công hiến hội. Sau đó ông bị trục xuất, phải bỏ sang Trung Quốc theo học các trường quân sự, rồi nhận chức thiếu tá trong quân đội Trung Hoa. Tháng 3-1912, ông được bầu làm Uỷ viên quân sự Bộ chấp hành Việt Nam quang phục hội.
Năm 1914, Lương Ngọc Quyến về nước gây cơ sở cách mạng tại Nam Kỳ, rồi sang Thái Lan, Hồng Kông. Lương Ngọc Quyến bị mật thám Anh bắt trao cho thực dân Pháp, đưa về Việt Nam giam ở các nhà lao ở Hà Nội, Phú Thọ, Thái Nguyên. Tại đây, ông đã cùng Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên. Vì bị cùm lâu ngày ông không đi đứng được nữa nên khi quân Pháp phản công đánh kịp, ông không chịu lên cáng rút lui mà đòi Trịnh Văn Cấn bắn vào ngực ông để quyên sinh ngày 5-9-1917.
Lương Ngọc Quyến 梁玉狷 (1885 - 5/9/1917) hiệu Lương Lập Nham, là một chí sĩ Việt Nam thời cận đại, sớm chịu ảnh hưởng tư tưởng canh tân của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu (Trung Quốc) rồi theo đuổi áp dụng ở Việt Nam. Quê gốc của ông là làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội ngày nay. Ông sinh ra tại Hà Nội trong một gia đình khoa cử khá giả, là con thứ của chí sĩ Lương Văn Can.
Tháng 10-1905, ông cùng em ruột là Lương Nghị Khanh hưởng ứng Phong trào Đông Du, sang Nhật Bản du học. Ông được Phan Bội Châu gửi học ở Trường Chấn Vũ, tốt nghiệp loại ưu vào cuối 1908. Thời gian này ông tham gia vào Công hiến hội. Sau đó ông bị trục xuất, phải bỏ sang Trung Quốc theo học các trường quân sự, rồi nhận chức thiếu tá trong quân đội Trung Hoa. Tháng 3-1912, ông được bầu làm Uỷ viên quân sự Bộ chấp hành…