汴上送李郢之蘇州

人高詩苦滯夷門,
萬里梁王有舊園。
煙幌自應憐白紵,
月樓誰伴詠黃昏。
露桃塗頰依苔井,
風柳誇腰住水村。
蘇小小墳今在否,
紫蘭香徑與招魂。

 

Biện thượng tống Lý Dĩnh chi Tô Châu

Nhân cao thi khổ trệ Di môn,
Vạn lý Lương vương hữu cựu viên.
Yên hoảng tự ưng liên bạch trữ,
Nguyệt lâu thuỳ bạn vịnh hoàng hôn.
Lộ đào đồ giáp y đài tỉnh,
Phong liễu khoa yêu trú thuỷ thôn.
Tô Tiểu Tiểu phần kim tại phủ,
Tử lan hương kính dữ chiêu hồn.

 

Dịch nghĩa

Tài cao thơ khổ, lại khốn đốn nơi Di môn,
Vườn cũ Lương vương cách vạn dặm vẫn còn.
Màn khói nhạt nhoà gợi lòng thương tấm lụa trắng,
Lên lầu ngắm trăng lại không bạn vịnh cảnh hoàng hôn.
Cây đào đẫm sương thêm khoe sắc đỏ bên cạnh giếng phủ rêu,
Gió đong đưa càng khoe nét liễu thanh tao giữa xóm thôn.
Mộ phần của Tô Tiểu Tiểu nay còn không?
Đương hoa lan tía thơm như chiêu hồn người xấu số.


Bài thơ làm vào giữa năm Hội Xương thứ năm (645) lúc tác giả trở về ở Đông Lạc.

Lý Dĩnh tên tự là Sở Vọng, đỗ tiến sĩ năm Đại Trung thứ mười, từng làm Phiên trấn tùng sự, sau làm Thị ngự sử. Ông giỏi về thơ, lời đẹp mà ý kín, ngôn ngữ như ngọc, tả cảnh bộc lộ nỗi niềm rất khéo lại đẹp đẽ..., có một tập thơ. Cuối đời Đường ông lánh nạn ở Lĩnh Biểu. Sách Đường ngữ lâm, Văn học chép: “Lý Dĩnh nổi tiếng về thơ,... khi đỗ tiến sĩ, ông trở về Giang Nam ở đất Tô Châu”. Như vậy bài thơ này được làm lúc Lý Dĩnh chưa đỗ tiến sĩ.

Bài thơ ý nói Lý Dĩnh tài cao mà khổ vì thơ, có tài nhưng thời nay không có người mến tài như Lương Hiếu vương, phải lưu lạc lênh đênh. Mượn đào, liễu để nói tài hoa của Lý, nhưng cuối cùng, tài tử phải náu thân nơi thôn xóm. Hai câu cuối ý tứ thê lương, ý nói cuộc đời mỹ nhân lưu lạc với đời tài sĩ không gặp thời xưa nay vốn giống nhau.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Quang Trường

Tài cao thơ khổ khốn Di môn,
Vườn cũ Lương vương vạn dặm còn.
Màn khói toả mờ thương lụa trắng,
Lầu trăng ai bạn vịnh hoàng hôn?
Má đào sương đẫm rêu xanh giếng,
Dáng liễu gió vờn giữa xóm thôn.
Đâu chốn mộ phần Tô Tiểu Tiểu,
Đường thơm lan tía tựa chiêu hồn.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Môn toả hoàng hôn,
Nguyệt tẩm mai hoa lãnh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lam Điền

Lận đận tài cao khổ cửa Di,
Vườn Lương ngàn dặm nói làm chi.
Khói lên nhớ lụa tay người múa,
Lầu nguyệt đề thơ vắng bạn thi.
Đào thắm sương đầm rêu phủ giếng,
Liễu mềm gió cọt nước thôn đi.
Nàng Tô gửi xác nơi này hẳn,
Hồn quyến đường hoa cũng lạ kỳ!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Môn toả hoàng hôn,
Nguyệt tẩm mai hoa lãnh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Di môn thơ khổ cao tài
Vườn xưa vua Nguỵ khuất ngoài dặm xa
Khói che tay lụa trắng ngà
Cùng ai lầu nguyệt chiều tà ngâm thơ
Giếng rêu, đào thắm sương mờ
Gió khoe dáng liễu cạnh bờ ao thôn
Mộ nàng Tô thị có còn
Đường thơm lan tím gọi hồn người xưa

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Tài cao khổ Di môn khốn đốn
Vườn Lương vương cách vạn dặm khơi
Khói lên lụa trắng thương hoài
Lên lầu trăng ngắm không ai vịnh cùng
Má đào đẫm sương càng yểu điệu
Gió đong đưa khoe liễu thân mềm
Còn không Tô Tiểu mộ phần
Hoa lan thơm ngát chiêu hồn nàng chăng.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn phước Hậu

Khốn Di môn, khổ thơ, cao tài
Vườn cũ Lương vương vạn dặm dài.
Màn khói gây niềm thương lụa trắng
Lầu trăng không bạn vịnh chiều rơi.
Giếng rêu má thắm đào sương móc
Xóm nước cành mềm liễu gió khơi.
Còn mất mộ phần Tô Tiểu Tiểu ?
Đường hoa lan tiá viếng hồn người.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Tài cao thơ khốn Di môn,
Lương vương vườn cũ vẫn còn dặm xa.
Gợi thương nhạt khói lụa là,
Ngắm trăng lầu vịnh cảnh nhà hoàng hôn.
Giếng rêu khoe sắc đào hồng,
Thanh tao nét liễu gió đong đưa cành.
Mộ phần Tô Tiểu còn chăng?
Chiêu hồn người chết hoa lan thơm lừng.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời