題三鄉驛

昔逐良人西入關,
良人身歿妾身還。
謝娘衛女不相待,
為雨為雲歸此山。

 

Đề Tam Hương dịch

Tích trục lương nhân tây nhập quan,
Lương nhân thân một thiếp thân hoàn.
Tạ nương vệ nữ bất tương đãi,
Vi vũ vi vân quy thử san.

 

Dịch nghĩa

Xưa theo chồng đi phía tây làm lính thú ở cửa ải,
Chồng chết, thiếp về quê cũ.
Cảm ơn các bạn gái đã giúp đỡ, nay không còn ở bên nhau,
Sẽ làm mây làm mưa quay về núi này.


Tam Hương là tên một quán dịch, nay ở chân núi Nhược Da, phía nam huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Thiếu phụ có chồng đi lính thú nơi biên ải chết trận, bà về nhà cha mẹ đẻ. Bạn gái đưa về tới quán dịch này, bà làm bài này để cảm ơn và chia tay.

Sách Hương diễm tùng thư 香艷叢書 đời Thanh chép rằng tác giả có viết dưới bài thơ do văn chương không phải việc của nữ nhân, nên không đề tên, nhưng có để lại mấy câu “Tính nhị cửu hạ phụ hậu, ngọc vô hà biện vô thủ, Kinh Sơn thạch vãng vãng hữu” 姓二九下父後,玉無瑕弁無首,荊山石往往有. Dựa vào đây, Lý Thư 李舒 giải rằng: “nhị cửu” là mười tám, tức “thập bát” 十八, ghép lại là chữ “mộc” 木; “phụ hậu” là con, tức chữ “tử” 子; “mộc hạ tử” tức chữ “lý” 李; “ngọc vô hà” tức chữ “ngọc” bỏ nét chấm còn lại chữ “vương” 王; “biện vô thủ” tức chữ “củng” 廾; “vương hạ củng” là chữ “lộng” 弄; núi Kinh Sơn có nhiều “ngọc” 玉. Do đó đoán tên tác giả là Lý Lộng Ngọc 李弄玉.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Ngày xưa đó chồng tôi nhập ải
Chồng chết rồi tôi phải về quê
Cảm ơn bạn giúp mọi bề
Mây mưa núi cũ làng quê nhớ hoài

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Đông Phong

Xưa theo chồng nhập ải Tây Quan
Chồng chết thiếp về nhà một thân
Ơn chị giúp không hậu đãi được
Núi này mưa gió về tri ân.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Tú Anh

Theo chồng, lính thú ở Trường An
Chồng chết về quê chuyện khỏi bàn
Sau này tôi chết, các bạn gái
Về hoá mây mưa chẳng từ nan.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời