早秋京口旅泊贈張侍御

移家避寇逐行舟,
厭見南徐江水流。
吳地征徭非舊日,
秣陵凋弊不勝秋。
千家閉戶無砧杵,
七夕何人望斗牛。
只有同時驄馬客,
偏題尺牘問窮愁。

 

Tảo thu kinh khẩu lữ bạc tặng Trương thị ngự

Di gia tỵ khấu trục hành chu,
Yếm kiến Nam Từ giang thuỷ lưu.
Ngô địa chinh dao phi cựu nhật,
Mạt Lăng điêu tệ bất thăng thu.
Thiên gia bế hộ vô châm chử,
Thất tịch hà nhân vọng Đẩu Ngưu.
Chỉ hữu đồng thì thông mã khách,
Thiên đề xích độc vấn cùng sầu.

 

Dịch nghĩa

Gia đình bỏ nhà đi chạy giặc bằng thuyền
Nhìn mãi nước trôi ở Nam Từ này mà phát ngán
Ở đất Ngô việc thu thuế và bắt phu khác thời trước
Vùng Mạt Lăng điêu tàn và tồi tệ chẳng có vẻ thu tí nào
Nhà nhà đóng cửa không nghe tiếng chày giặt quần áo
Đêm 7 tháng 7 đâu còn ai đứng ngắm sao Đẩu, sao Ngưu
Chỉ có người cưỡi ngựa lông đốm trong lúc này
Là biên thư hỏi thăm về nỗi buồn cùng tận mà thôi

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu

Lên thuyền trốn giặc bỏ nhà thôi,
Ngao ngán Nam Từ nước chảy xuôi.
Phu, thuế đất Ngô giờ khác trước,
Điêu tàn vùng Mạt cảnh thu tồi.
Ngàn nhà đóng cửa không chày giặt,
Thất tịch ai nhìn Ngưu Đẩu soi.
Có khách lúc này dong ngựa đốm,
Biên thư thăm hỏi, gợi buồn ơi!

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Rời nhà lánh giặc, thuyền đi,
Nam Từ, nước chảy, trông thì chán sao.
Ngô: phu, thuế, giống trước nào,
Mạt Lăng: buồn bã, tả sao thu về.
Cửa cài, chầy: tiếng không nghe,
Trong đêm thất tịch, ai về ngắm sao!
Nguời cùng cưỡi ngựa ngày nào,
Còn biên thư hỏi thăm nhau nỗi buồn...

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Lên thuyền gia đình đi chạy giặc
Nam Từ nhìn phát ngán nước trôi
Đất Ngô hành chánh khác thời
Mạt Lăng tan tác không hơi thu về
Nhà cửa đóng không nghe chày giặt
Song thất đêm đâu mắt vọng đây
Chỉ người ngựa đốm lúc này
Còn biên thử hỏi nên hay ta buồn.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời