渡中江望石城泣下

江南江北舊家鄉,
三十年來夢一場。
吳苑宮闈今冷落,
廣陵臺殿已荒涼。
雲籠遠岫愁千片,
雨打歸舟淚萬行。
兄弟四人三百口,
不堪閑坐細商量。

 

Độ trung giang vọng Thạch Thành khấp há

Giang nam, giang bắc cựu gia hương,
Tam thập niên lai mộng nhất trường.
Ngô uyển cung vi kim lãnh lạc,
Quảng Lăng đài điện dĩ hoang lương.
Vân lung viễn tụ sầu thiên phiến,
Vũ đả quy chu lệ vạn hàng.
Huynh đệ tứ nhân tam bách khẩu,
Bất kham nhàn toạ tế thương lường.


Bài thơ này tác giả nhìn cảnh cũ hồi tưởng lại cố quốc không còn, đài điện hoang phế, gia đình ly tán.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Như Quy

Giang nam, giang bắc vốn gia hương,
Ba chục năm ròng mộng vấn vương.
Cung cũ vườn xưa nay lạnh lẽo,
Quảng Lăng đài điện đã hoang lương.
Mây lồng hang núi sầu ngàn lớp,
Mưa gõ thuyền đơn lệ vạn hàng.
Anh em thân thích ba trăm lẻ,
Việc xưa ngồi lặng chẳng kham lòng.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Long

Quê xưa Giang Bắc với Giang Nam,
Một giấc mơ dài ba chục năm.
Giờ điện Quảng Lăng hoang lạnh lẽo.
Nay cung Ngô Uyển giá căm căm,
Non xa mây bọc ngàn sầu chất,
Thuyền chở mưa tuôn vạn lệ đằm.
Quyến thuộc ba trăm, bốn huynh đệ,
Không đành nín lặng, khẽ chào thăm.

Du ư nghệ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Nam hay bắc sông đều quê cũ
Ba chục năm cứ ngỡ mộng dài
Vườn Ngô cung điện tàn phai
Quảng Lăng hoang phế điện đài thê lương
Mây lồng núi lòng buồn ngàn mối
Mưa táp thuyền lệ xối vạn hàng
Anh em thân thuộc người quen
Khó mà kể hết khi nhàn ngồi không.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời