俠客行

趙客縵胡纓,
吳鉤霜雪明。
銀鞍照白馬,
颯沓如流星。
十步殺一人,
千里不留行。
事了拂衣去,
深藏身與名。
閑過信陵飲,
脫劍膝前橫。
將炙啖朱亥,
持觴勸侯嬴。
三杯吐然諾,
五岳倒為輕。
眼花耳熱後,
意氣素霓生。
救趙揮金鎚,
邯鄲先震驚。
千秋二壯士,
烜赫大樑城。
縱死俠骨香,
不慚世上英。
誰能書閣下,
白首太玄經。

 

Hiệp khách hành

Triệu khách mạn hồ anh,
Ngô câu sương tuyết minh.
Ngân an chiếu bạch mã,
Táp đạp như lưu tinh.
Thập bộ sát nhất nhân,
Thiên lý bất lưu hành.

Sự liễu phất y khứ,
Thâm tàng thân dữ danh.
Nhàn quá Tín Lăng ẩm,
Thoát kiếm tất tiền hoành.
Tương chích đạm Chu Hợi,
Trì thương khuyến Hầu Doanh.
Tam bôi thổ nhiên nặc,
Ngũ nhạc đảo vi khinh.
Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu,
Ý khí tố nghê sinh.
Cứu Triệu huy kim chuỳ,
Hàm Đan tiên chấn kinh.
Thiên thu nhị tráng sĩ,
Huyên hách Đại Lương thành.
Túng tử hiệp cốt hương,
Bất tàm thế thượng anh.
Thuỳ năng thư các hạ,
Bạch thủ Thái huyền kinh.

 

Dịch nghĩa

Khách nước Triệu đeo giải mũ thô sơ
Thanh Ngô câu sáng như sương tuyết
Yên bạc soi chiếu con ngựa trắng
Lấp loáng như sao bay
(Thanh gươm) mười bước giết một người
Cho nên không đi xa ngàn dặm
Làm xong việc rũ áo ra đi
Ẩn kín thân thế cùng danh tiếng
Lúc nhàn rỗi qua nhà Tín Lăng quân
Cởi kiếm ra để ngang trên gối
Đem chả nướng mời Chu Hợi
Cầm chén rượu mời Hầu Doanh
Uống ba ly chân thành gật đầu
Năm trái núi lớn thật xem là nhẹ
Sau khi mắt hoa, tai nóng bừng
Ý khí như cầu vồng trắng bốc sinh
Vung cây chuỳ cứu nước Triệu
Thành Hàm Đan trước tiên đã chấn kinh
Hai tráng sĩ ngàn năm sau
Thanh danh lẫy lừng thành Đại Lương
Dù cho chết xương cốt hiệp sĩ còn thơm
Không hổ thẹn với anh hùng trên thế gian
Ai là người có thể ngồi viết sách dưới gác
Bạc đầu với cuốn kinh Thái huyền


Đây là một bài nhạc phủ cổ đề, thuộc Tạp khúc ca từ.

Nguỵ Vô Kỵ được anh là Nguỵ An Ly vương phong làm Tín Lăng quân. Ở thành Đại Lương, kinh đô của nước Nguỵ, có một ẩn sĩ 70 tuổi tên là Hầu Doanh. Tín Lăng quân rất trọng Hầu Doanh, tôn làm thượng khách. Hầu Doanh tiến cử người đồ tể tên là Chu Hợi, cũng là một ẩn sĩ hiền tài. Năm thứ 20 đời Nguỵ An Ly vương, quân Tần vây thành Hàm Đan của nước Triệu. Vua Nguỵ sai tướng Tấn Bỉ mang quân sang cứu Triệu, nhưng sau sợ uy thế của Tần, do đó không tiến quân. Tín Lăng quân vì bạn là Bình Nguyên quân đang bị vây ở Triệu, hết lời xin vua Nguỵ cho tiến quân, nhưng vua Nguỵ không nghe. Theo kế của Hầu Doanh, Tín Lăng quân nhờ vương phi Như Cơ, lấy trộm được binh phù của vua Nguỵ, đem đi ra lệnh cho Tấn Bỉ tiến quân. Tấn Bỉ nghi ngờ không tuân lệnh. Chu Hợi liền rút cây chuỳ sắt nặng 40 cân, giết chết Tấn Bỉ. Nhờ đó Tín Lăng quân dem quân đánh đuổi được quân Tần, cứu nguy cho thành Hàm Đan và Bình Nguyên quân.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (12 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Trọng San

Khách nước Triệu phất phơ giải mũ
Gươm Ngô câu rực rỡ tuyết sương
Long lanh yên bạc trên đường
Chập chờn như thể muôn ngàn sao bay
Trong mười bước giết người bén nhạy
Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi
Việc xong rũ áo ra đi
Xoá nhòa thân thế, kể gì tiếng tăm
Rảnh rang tới Tín Lăng uống rượu
Tuốt gươm ra, kề gối mà say
Chả kia với chén rượu này,
Đưa cho Châu Hợi, chuốc mời Hầu Doanh.
Ba chén cạn, thân mình xá kể!
Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng
Bừng tai, hoa mắt chập chùng,
Mống tuôn hào khí mịt mùng trời mây
Chùy cứu Triệu vung tay khảng khái,
Thành Hàm Đan run rẩy, kinh hoàng
Nghìn thu tráng sĩ hai chàng
Tiếng tăm hiển hách, rỡ ràng Đại Lương.
Thân dù thác, thơm xương nghĩa hiệp;
Thẹn chi ai hào kiệt trên đời.
Hiệu thư dưới gác nào ai ?
Thái huyền, trắng xoá đầu người chép kinh.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
194.74
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Truyện Tín Lăng Quân, Sử ký Tư Mã Thiên

(Đây là truyện Tín Lăng Quân trong Sử ký Tư Mã Thiên, nguồn cảm hứng cho Lý Bạch viết bài này)

Tín Lăng Quân là công tử Ngụy Vô Kỵ là con trai út của Ngụy Chiêu Vương, vốn là người có tâm hồn cao khiết, nhân hậu, tính thích chiêu hiền đãi sĩ, không phân biệt giàu nghèo, thường lấy lễ để giao tiếp với kẻ sĩ.

Nước Ngụy có kẻ ẩn sĩ tên là Hầu Doanh, tuổi đã 70, nhà nghèo, làm nghề gác cửa thành Di Môn ở Đại Lương. Ngụy công tử nghe tiếng, tìm đến kính cẩn kết giao, mà người ấy lại không nhận, nói rằng:

- Tôi sửa mình, giữ hạnh mấy mươi năm trời, không thể vì cái tình cảnh khốn khó này mà nhận của cải của công tử.

Tín Lăng Quân bèn thiết tiệc, mời quan khách họp mặt đông đủ. Chủ khách yên vị rồi, công tử lên xe ngồi chỗ bên phải, nhường chỗ bên trái (ngày xưa dành chỗ bên trái cho người mình quý trọng), đích thân đi đón Hầu Doanh. Hầu sinh giũ manh áo rách, phủi cái mũ cũ, bước thẳng lên xe, ngang nhiên ngồi vào chỗ dành sẵn, thử xem phản ứng của công tử ra sao. Công tử cầm cương, càng tỏ vẻ cung kính. Hầu sinh bảo công tử:

- Tôi có một người quen ở dãy hàng thịt trong chợ, xin vui lòng cho xe qua đó.

Công tử đánh xe vào chợ. Hầu sinh xuống thăm người quen là Chu Hợi, cố ý đứng nói chuyện lâu, liếc mắt, dò ý công tử. Lúc đó, văn thần, võ tướng nước Ngụy cùng người trong tôn thất và các tân khách đầy nghẹt cả nhà, chờ công tử về khai tiệc. Người trong chợ xem công tử cầm cương. Lính theo hầu đều rủa thầm Hầu sinh. Hầu sinh nhìn vẻ mặt công tử, thấy trước sau không đổi, bèn từ biệt người quen lên xe. Về đến nhà, công tử mời Hầu sinh ngồi chỗ cao nhất, giới thiệu và ca tụng tài đức Hầu sinh với quan khách. Tất cả đều kinh ngạc. Rượu ngà say, công tử đứng lên, đứng trước mặt Hầu sinh chúc mừng. Hầu sinh thừa dịp nói với công tử rằng:

- Hôm nay, Doanh tôi làm công tử mất thể diện nhiều quá rồi. Doanh tôi chỉ là tên gác cửa mà công tử đích thân đánh xe đến đón tôi, ở giữa nơi đông người, công tử không nên tỏ ra quá ư lễ độ mới phải. Vậy mà nay công tử cố ý đi quá mức. Xong Doanh tôi muốn vun quén cho cái danh của công tử, cố ý để cho xe của công tử dừng lâu trong chợ, khiến mọi người thấy cái phong độ của công tử, càng đợi lâu càng tỏ vẻ cung kính dịu dàng. Người trong chợ đều cho rằng công tử là một bậc trưởng giả biết trọng kẻ sĩ.

Tiệc tan, Hầu sinh được đãi làm thượng khách. Hầu sinh nói với Tín Lăng Quân:

- Người hàng thịt là Chu Hợi mà tôi qua thăm đó, đó là người hiền, đời không ai biết, cho nên mới ẩn thân làm nghề mỗ lợn đó thôi.

Công tử đến thăm Chu Hợi nhiều lần, mà Chu Hợi cố tình không cảm tạ. Công tử cảm thấy kỳ lạ về thái độ của Chu.

Năm 20 đời Ngụy An Hi Vương, Tần Chiêu Vương phá tan quân Triệu ở Trường Bình, lại kéo quân vây thành Hàm Đan của Triệu. Chị của Tín Lăng Quân là vợ của Bình Nguyên Quân nước Triệu (Triệu Thắng), nhiều lần viết thư cho Ngụy vương để xin cứu viện. Ngụy Vương sai tướng quan Tấn Bỉ mang 10 vạn quân đi cứu Triệu. Tần Vương bảo Ngụy Vương rằng:

- Ta đánh Triệu, thắng trong sớm tối. Nước nào cứu Triệu, thì sau khi hạ xong Triệu, ta sẽ đánh nước đó trước.

Ngụy Vương nghe vậy cả sợ, liền ra lệnh cho Tấn Bỉ án binh bất động ở Nghiệp Hạ. Còn Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ vốn có mối giao tình thâm đậm với Bình Nguyên Quân, nên ông cố vào triều cố thuyết phục vua Ngụy tiến quân. Vua Ngụy quyết khước từ.

Tín Lăng Quân đau đớn không biết làm cách nào để giúp bạn mình, liền nói với đám thực khách:

- Các vị có vì ta mà hy sinh cứu Triệu không?

Cả ngàn tân khách đều hưởng ứng lời hiệu triệu đó.

Tín Lăng Quân dẫn đám thực khách đi ngang qua Di Môn, ghé lại thăm Hầu Doanh, Hầu Doanh nói:

- Chúc công tử cố gắng. Doanh này già rồi không theo công tử được.

Đi được mấy dặm, Tín Lăng Quân thấy lòng không vui, chợt nghĩ điều gì đó, bèn quay lại, thấy Hầu Doanh đứng trước cửa đón mình. Hầu Doanh mỉm cười nói:

- Tôi đoán công tử thế nào cũng trở lại.

Vô Kỵ (Tín Lăng Quân) hỏi:

- Sao biết?

Hầu Doanh nói:

- Công tử đãi Doanh này rất hậu. Giờ này công tử vào nơi nguy hiểm mà Doanh này không có một ý kiến gì, tất công tử sẽ giận, nên trở lại hỏi cho ra lẽ? !

Vô Kỵ nói:

- Tôi ngờ rằng đãi tiên sinh có điều gì sơ sót nên tiên sinh mới giận mà ghét bỏ, vì thế tôi quay lại hỏi cho biết.

Hầu Doanh nói:

- Công tử nuôi ba ngàn thực khách đã vài chục năm rồi thế mà không có vị nào nghĩ ra diệu kế. Công tử và đám thực khách liều mạng xông vào trại Tần có khác nào ném thịt cho hổ đói? Có phải trước đây công tử có ơn với Vương Phi Như Cơ không?

Tín Lăng Quân chợt nhớ ra ... Liền quay về thành Ngụy gặp Vương Phi Như Cơ, nhờ Vương Phi lấy cắp binh phù đưa cho mình rồi tức tốc trở lại gặp Hầu Sinh (tức Hầu Doanh), Hầu Sinh nói:

- Tướng ngoài mặt trận có thể không tuân theo mệnh vua. Công tử phải mời Chu Hợi mới được.

Tín Lăng Quân cùng Hầu Doanh đến gặp Chu Hợi. Hợi nói:

- Tôi là đứa mổ heo ở chợ, thân phận hèn hạ, bấy lâu đội ơn công tử hạ cố. Sở dĩ Hợi tôi không nói lời ơn nghĩa vụn vặt là đợi đến lúc này đây.

Hầu Doanh nói:

- Binh hung chiến nguy! Doanh này đã già không đi cùng công tử được. Khi công tử tới trận, ở đây Doanh này xin lấy cái chết để tạ ơn công tử.

Ba người bái biệt nhau. Tín Lăng Quân đến Nghiệp Hạ cùng với Chu Hợi vào yết kiến lão tướng Tấn Bỉ. Tín Lăng Quân nói:

- Đại vương thấy tướng quân mấy mươi năm dầm sương dãi gió cực khổ về binh nghiệp, nay sai Vô Kỵ đến cầm quân thay cho lão tướng.

Nói rồi đưa binh phù ra, hai bên so, ăn khớp nhau. Nhưng Tấn Bỉ nói:

- Làm tướng ngoài mặt trận có lúc vì tình thế mà không tuân theo mệnh vua, tuy rằng công tử có binh phù này nhưng hãy chờ ít hôm, tôi làm sổ sách và cho người về hỏi lại nhà vua lần nữa.

Tín Lăng Quân nói:

- Cứu binh như cứu lửa. Thành Hàm Đan đang khắc khoải tứng giây phút lẽ nào phải chờ tin đi tin lại?

Chu Hợi hét:

- Nguyên soái không tuân theo mệnh vua, ý muốn làm phản chăng?

Nói rồi lấy dùi sắt đập đầu Tấn Bỉ chết ngay.

Tín Lăng Quân cùng Chu Hợi đoạt lấy binh quyền, đánh vào trại Tần. Tướng Tần là Vương Hạt đại bại, kéo tàn quân chạy về Hàm Cốc quan đóng kín cửa ải. Công tử Ngụy Vô Kỵ cứu được nước Triệu. Triệu Vương cùng Bình Nguyên Quân ra đón rước công tử. Danh tiếng Tín Lăng Quân thành lừng lẫy.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
65.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Khách nước Triệu phất phơ giải mũ
Kiếm Ngô Câu rực rỡ tuyết sương
Ngân yên bạch mã huy hoàng
Vó câu vun vút như ngàn sao bay
Cách mười bước giết người chẳng trật
Ngàn dặm xa vùng vẫy mà chi?
Việc xong rũ áo ra đi
Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm
Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến
Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi
Này nem này rượu khuyên mời
Bên thời Chu Hợi bên thời Hầu Doanh
Ba chén cạn, thân mình xá kể?
Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng!
Mắt hoa mặt đã nóng bừng
Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh
Chùy cứu Triệu vung tay khảng khái
Thành Hàm Đan run rẩy kinh hoàng
Nghìn thu tráng sĩ hai chàng
Tiếng tăm hiển hách, rỡ ràng Đại Lương
Người dù thác xương còn thơm ngát
Chẳng hổ ngươi đáng mặt anh hào!
Kìa ai ẩn náu lên lầu
Chép kinh đến thủa bạc đầu chưa xong?

104.50
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của mailang

Giải mũ thô, chít đầu khách Triệu,
Kiếm Ngô Câu, sáng chiếu tuyết pha.
Ngân yên, bạch mã ánh lòa,
Bời bời lấp lánh như là sao bay.
Giết một người chỉ giây mười bước,
Cũng chẳng cần thân vượt dặm ngàn.
Việc xong, phủi áo lỉnh an,
Thân danh dấu kín, thế gian chẳng tường.
Nhà Tín Lăng, rảnh thường thù tạc,
Ngang gối ngồi kiếm gác tự nhiên.
Chả ram Chu Hợi đãi liền,
Tay nâng chén rượu còn khuyên họ Hầu.
Uống ba chén, gật đầu vâng lệnh,
Lật năm non, nhẹ tểnh như không.
Mắt tai hừng hực tóe bông,
Bốc lên ý khí ửng hồng cầu mây.
Vung chùy sắt Triệu vây được giải,
Điều trước tiên kinh hãi Hàm Đan.
Nghìn thu tráng sĩ hai chàng,
Tiếng tăm lừng lẫy rỡ ràng Đại Lương.
Dù đã chết, thơm xương nghĩa liệt,
Chẳng thẹn cùng hào kiệt xưa nay.
Dưới hiên viết sách ai này,
Thái Huyền kinh đọc sương rây mái đầu.

44.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Một số lỗi trong bài Hiệp Khách Hành

俠客行
Hiệp khách hành
 
趙客縵胡纓,
吳鉤霜雪明
銀鞍照白馬,
瘋沓如流星 (chữ đúng là 颯沓)
十步殺一人,
千里不留行
事了拂衣去,
深藏身與名
閑過信陵飲,
脫劍膝前橫。
將炙啖朱亥,
持觴勸侯嬴。
三杯吐然諾,
五岳倒為輕。
眼花耳熱後,
意氣素霓生。
救趙揮金錘, (chữ 錘 này là cái búa, chữ đúng 鎚: nghĩa cái chuỳ - vũ khí)
邯鄲先震驚。
千秋二壯士,
烜赫大樑城。
縱死俠骨香,
不慚世上英。
誰能書閣下,
白首太玄經。
Triệu khách mạn hồ anh
Ngô câu sương tuyết minh
Ngân an chiếu bạch mã
Táp nạp như lưu tinh (chữ đúng là táp đạp)
Thập bộ sát nhất nhân
Thiên lý bất lưu hành
Sự liễu phất y khứ
Thâm tàng thân dữ danh
Nhàn quá Tín lăng ẩm
Thất kiếm tất tiền hoành (chữ đúng là thoát kiếm)
Tương chích đạm Chu Hợi
Trì Trường khuyến Hầu Doanh (chữ đúng là trì thương)
Tam bôi thổ nhiên nặc
Ngũ nhạc đảo vi khinh
Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu
Ý khí tố nghê sinh
Cứu Triệu huy kim chùy
Hàm Đan tiên chấn kinh
Thiên thu nhị tráng sĩ
Huyên hách Đại Lương thành
Túng tử hiệp cốt hương
Bất tàm thế thượng anh
Thùy năng thư các hạ
Bạch thủ Thái huyền kinh

45.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Khách bên Triệu giải mũ thô,
Gươm Ngô Câu sáng tựa hồ tuyết sương.
Ngựa yên bạc chiếu như gương,
Lấp la lấp lánh: sao đương giữa trời.
Cứ mười bước, giết một người,
Nên nghìn dặm, chẳng đi nơi chốn nào.
Việc xong, đi, rũ áo bào,
Thân, tên, dấu kín, ai nào có hay.
Tín Lăng, đến uống chốn này,
Rút gươm để nhẹ ở ngay trước đùi.
Đãi Chu Hợi chả nướng rồi,
Lại nâng chén rượu để mời Hầu Doanh.
Uống xong ba chén, tuân hành,
Ra tay, Ngũ Nhạc, lật nhanh nhẹ nhàng.
Mắt hoa, tai nóng như rang,
Khí cao như mống vắt ngang lưng trời.
Vung chuỷ cứu nước Triệu thôi,
Hàm Đan, chấn động một hồi trước tiên.
Nghìn thu, tráng sĩ, ghi tên,
Đại Lương, rực rỡ, tiếng rền khắp nơi.
Xương tàn thơm xuốt một thời,
Anh hùng, sống ở trên đời, thẹn đâu.
Ai hay viết sách dưới lầu,
Thái Huyền, nghiền ngẫm kinh, đầu bạc thôi.

12.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Đông Phong

Dải mũ sơ rõ người khách Triệu
Gươm Ngô Câu sáng chiếu tuyết sương
Rỡ ràng ngựa trắng yên vàng
Trập trùng rong ruổi muôn ngàn sao bay
Mười bước ra một người phải chết
Nghìn dặm nên chẳng phép lưu hành
Đi thôi rũ áo việc thành
Kín che thân thế tiếng danh kể gì
Ghé Tín Lăng rượu khi rảnh rỗi
Rút thanh gươm trước gối đặt ngang
Chả ngon Châu Hợi mời sang
Chén đây rượu quý Hầu Doanh cạn nào
Uống ba chén tâm đầu ý thuận
Năm núi kia đánh bật nhẹ không
Mắt hoa tai nóng bừng bừng
Ý sinh hào khí cầu vồng quang huy
Triệu gặp khó một chuỳ cứu khổn
Giúp Hàm Đan uy chấn trước đời
Nghìn năm tráng sỹ hai người
Đại Lương lừng lẫy một thời nhớ sao
Xương vẫn thơm anh hào dù chết
Ở trên đời chẳng thẹn anh tài
Viết kinh dưới gác kìa ai
Bạc đầu lo soạn sách mê Thái Huyền.

15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Giải mũ thô người hùng đất Triệu
Thanh Ngô câu ánh chiếu sáng ngời
Tựa sao lấp lánh trên trời
Là yên ngựa bạc giữa nơi phố phường
Trong mười bước sát thương một mạng
Nên cần chi vạn dặm trường chinh
Việc xong rũ áo lặng thinh
Không ai còn thấy bóng hình hay tên
Nhắm lúc rảnh Tín Lăng mời rượu
Tháo kiếm ra đầu gối kề bên
Đã mời Châu Lợi chả nem
Lại còn chuốc rượu Hầu Doanh ân cần
Chè chén được ba tuần nhận việc
Ngũ nhạc kia có xập cũng pha
Tai đã nóng, mắt đã hoa
Bừng bừng ý khí như là mống cao
Cứu nước Triệu chuỳ vàng vung tít
Giặc Hàm Đan hoảng hốt kinh hoàng
Hai chàng tráng sĩ thơm hương
Vẫn còn mãi mãi Đại Lương lẫy lừng
Dù có chết thơm xương hiệp sĩ
Trong anh hùng không hổ râu ria
Ai như lầu sách đằng kia
Tóc đà điểm trắng còn ghi Thái Huyền.

23.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Khách Triệu mũ giải thô
Gươm Ngô màu tuyết sáng
Yên bạc ngựa trắng ngời
Như sao băng lấp loáng
Mười bước giết một người
Ngàn dặm đâu rong ruổi
Việc xong giũ áo lui
Giấu mình không tên tuổi
Nhàn; uống rượu Tín Lăng
Gươm đặt ngay đầu gối
Nâng chén mời Hầu Doanh
Nướng chả đãi Chu Hợi
Ba chén vừa cạn xong
Năm núi lật như bỡn
Mắt hoa, tai nóng bừng
Chí toả như rồng giỡn
Cứu Triệu vung chày sắt
Hàm Đan thành rung rinh
Nghìn thu hai tráng sĩ
Đại Lương rền uy danh
Xương thơm dầu đã chết
Chẳng thẹn với anh hùng
Thái Huyền kinh tóc trắng
Viết sách ích gì không

94.44
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Man

Triệu khách mũ trơ giải,
Ngô câu kiếm sáng loè.
Yên bạc rọi ngựa trắng,
Nhấp nhoáng tựa sao băng.
Mười bước một người chết,
Ngàn dặm há lưu hành?
Việc tất, rũ áo, bước.
Giấu thân thế, tính danh.
Ghé Tín Lăng dự tiệc,
Cỡi kiếm để trước mình.
Gắp thịt mời Chu Hợi,
Nhấc rượu kính Hầu Doanh.
Ba chén, gật đầu hứa,
Non núi khuấy nhẹ tênh.
Tai mắt bừng nhiệt huyết,
Ý khí rạng cầu vồng.
Cứu Triệu khua chuỳ sắt,
Hàm đan hết chấn kinh.
Ngàn thu hai tráng sĩ,
Vang dội Đại Lương thành.
Có chết vẫn lừng tiếng,
Chẳng thẹn với quần anh.
Ai như đám thư các,
Mòn đời Thái huyền kinh.

34.33
Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Trang trong tổng số 2 trang (12 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối