15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
3 bài trả lời: 3 bản dịch

Đăng bởi tôn tiền tử vào 04/03/2015 07:23

翰林讀書言懷呈集賢諸學士

晨趨紫禁中,
夕待金門詔。
觀書散遺帙,
探古窮至妙。
片言苟會心,
掩卷忽而笑。
青蠅易相點,
白雪難同調。
本是疏散人,
屢貽褊促誚。
雲天屬清朗,
林壑憶游眺。
或時清風來,
閒倚欄下嘯。
嚴光桐廬溪,
謝客臨海嶠。
功成謝人間,
從此一投釣。

 

Hàn lâm độc thư ngôn hoài trình tập hiền chư học sĩ

Thần xu tử cấm trung,
Tịch đãi Kim Môn chiếu.
Quan thư tán di trật,
Thám cổ cùng chí diệu.
Phiến ngôn cẩu hội tâm,
Yểm quyển hốt nhi tiếu.
Thanh dăng dị tương điểm,
Bạch tuyết” nan đồng điệu.
Bản thị sơ tản nhân,
Lũ di biển xúc tiếu.
Vân thiên thuộc thanh lãng,
Lâm hác ức du thiếu.
Hoặc thời thanh phong lai,
Nhàn ỷ lan hạ khiếu.
Nghiêm Quang đồng lư khê,
Tạ Khách lâm hải kiều.
Công thành tạ nhân gian,
Tòng thử nhất đầu điếu.

 

Dịch nghĩa

Buổi sáng đi mau tới tử cấm thành,
Buổi chiều chờ chiếu chỉ tới viện Kim Môn.
Mở túi tàng trữ lấy sách ra đọc,
Thấy chữ cổ xưa, ý sâu xa.
Nửa chữ cũng không nhập tâm được,
Gấp sách lại chợt cười khan.
Ruồi nhặng xanh dễ nhơ bẩn như nhau,
Khó mà cùng nhịp với bài ca “Bạch tuyết”.
Ta vốn là người hời hợt phóng túng,
Nhưng vẫn thường bị cười chê là nhỏ mọn.
Trời mây u ám vừa trong sáng,
Làm ta nhớ lại những chuyến rong chơi ngắm núi rừng.
Hoặc lúc gió mát vừa thổi tới,
Ta dựa lan can mà kêu lên sảng khoái.
Ta ngưỡng mộ Nghiêm Quang với túp lều bên cây ngô đồng nơi bờ suối,
Tạ Khách trên núi cao nơi góc biển.
Được làm trong viện hàn lâm coi như công thành rồi, nên từ tạ chỗ có đông người,
Sau đó làm người câu cá bên suối vắng.


Lý Bạch viết bài này khoảng năm 743. Lúc đó, nhờ Ngô Quân tiến cử, ông được Đường Huyền Tông ban chức hàn lâm cung phụng. Ông cũng muốn đem tài sức mình ra giúp vua, nhưng Huyền Tông đang mê đắm Dương Quý Phi không thiết gì đến việc nước nữa. Bản tính ông lại thích tự do phóng túng nay gò bó trong cung đình phép tắc, ông làm bài này nói chí mình. Ít lâu sau ông xin từ quan. Vua chuẩn tấu và còn ban nhiều vàng bạc...

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Sáng đi đến tử cấm thành ngay,
Chiều đợi chiếu Kim Môn viện dài.
Mở túi tàng thư tìm sách đọc,
Chữ xưa ý nghĩa cao sâu thay.
Nhập tâm, nửa chữ không vào nổi,
Gấp sách cười khan vậy đó thôi.
Cái đám nhặng ruồi đều bẩn thỉu,
Bài ca "Bạch tuyết" chẳng hoà vui.
Đơn sơ, phóng túng như ta vậy,
Thường vẫn bị cười nhạo nhỏ nhoi.
Mây tịnh trời thanh vừa hẳn đấy,
Nhớ nhung rừng núi thuở rong chơi.
Hoặc khi gió mát vừa lan tới,
Đứng tựa lan can sảng hét dài.
Mơ túp lều Nghiêm Quang mé suối,
Khách nhà họ Tạ biển non khơi.
Công thành, từ tạ nhân gian rộn,
Sau đấy ngồi câu cá thảnh thơi.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn phước Hậu

Sáng mau tới thành Tử cấm
Kiến môn chiều đợi chiếu vua
Mở túi sách thư nghiền ngẫm
Cao thâm ý tứ cổ xưa.
Nửa chữ cũng chẳng thông rành
Gấp sách lại đâm cười cợt
Nhặng với ruồi xanh nhơ nhớp
“Bạch tuyết” khó hợp hoà thanh.
Ta vốn là người hời hợt
Thường bị chê trách hẹp hòi
Trời mây vừa trong sáng tốt
Nhớ lại rừng núi rong chơi.
Hoặc khi gió lành thổi tới
Lan can sảng khoái la vang
Túp lều bên suối Nghiêm Quang
Tạ Khách biển non vời vợi
Công thành tạ với nhân gian
Lang thang theo người câu suối.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Buổi sáng đi vào thành Tử cấm
Chiếu chỉ chờ chiều tới Kim môn
Mở nang lấy sách ra ôn
Thấy tuồng chữ cổ, ý còn sâu xa
Nửa chữ cũng không vô lòng được
Gấp sách xong lại chợt cười khan
Như nhau dơ bẩn nhặng xanh
Khó mà “Bạch tuyết” hoà cùng nhịp ca
Ta vốn đã là người phóng túng
Thường bị chê là chẳng khoan dung
Trời u ám, vừa sáng trong
Làm ta nhớ những chuyến rong chơi rừng
Hoặc vừa lúc gió lành thổi tới
Dựa lan can mà thốt kêu tên
Nghiêm Quang bờ suối lều bên
Với ông họ Tạ trên triền núi cao
Công thành rồi nhân gian từ tạ
Kiếm cần câu ghềnh đá ngồi nhàn.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời