15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
4 bài trả lời: 1 bản dịch, 3 thảo luận

Đăng bởi Diệp Y Như vào 24/07/2011 23:58, đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 29/07/2011 08:45

登黃山凌歊臺送族弟溧陽尉濟充泛舟赴華陰

鸞乃鳳之族,
翱翔紫雲霓。
文章輝五色,
雙在瓊樹棲。
一朝各飛去,
鳳與鸞俱啼。
炎赫五月中,
朱曦爍河堤。
爾從泛舟役,
使我心魂淒。
秦地無碧草,
南雲喧鼓鼙。
君王減玉膳,
早起思鳴雞。
漕引救關輔,
疲人免塗泥。
宰相作霖雨,
農夫得耕犁。
靜者伏草間,
群才滿金閨。
空手無壯士,
窮居使人低。
送君登黃山,
長嘯倚天梯。
小舟若鳧鴈,
大舟若鯨鯢。
開帆散長風,
舒卷與雲齊。
日入牛渚晦,
蒼然夕煙迷。
相思定何許,
杳在洛陽西。

 

Đăng Hoàng sơn Lăng Hiêu đài tống tộc đệ Lật Dương uý Tế sung phiếm chu phó Hoa Âm

Loan nãi phụng chi tộc,
Cao tường tử vân nghê.
Văn chương huy ngũ sắc,
Song tại quỳnh thụ thê.
Nhất triêu các phi khứ,
Phụng dữ loan câu đề.
Viêm hách ngũ nguyệt trung,
Chu hi thước hà đê.
Nhĩ tòng phiếm chu dịch,
Sử ngã tâm hồn thê.
Tần địa vô bích thảo,
Nam vân huyên cổ bề.
Quân vương giảm ngọc thiện,
Tảo khởi tư minh kê.
Tào dẫn cứu quan phụ,
Bì nhân miễn đồ nê.
Tể tướng tác lâm vũ,
Nông phu đắc canh lê.
Tĩnh giả phục thảo gian,
Quần tài mãn kim khuê.
Không thủ vô tráng sĩ,
Cùng cư sử nhân đê.
Tống quân đăng Hoàng sơn,
Trường khiếu ỷ thiên thê.
Tiểu chu nhược phù nhạn,
Đại chu nhược kình nghê.
Khai phàm tán trường phong,
Thư quyển dữ vân tề.
Nhật nhập Ngưu chử hối,
Thương nhiên tịch yên mê.
Tương tư định hà hứa,
Yểu tại Lạc Dương tê.

 

Dịch nghĩa

Loài chim loan, chim phượng,
Xoè cánh bay lượn tít tầng mây biếc.
Vẻ ngoài lộng lẫy rực rỡ năm sắc,
Cùng đậu lên cây ngọc.
Một sớm đều bay đi,
Phượng và loan cùng kêu.
Tháng năm đang lúc nóng nực,
Nắng đỏ lấp lánh trên đê.
Em lên thuyền đi làm việc,
Khiến lòng ta buồn bã.
Đất Tần không cỏ biếc,
Trống đánh vang tận mây phương Nam.
Đức vua bớt cơm ngự,
Sáng sớm nhớ tiếng gà gáy.
Chở quân theo đường sông đi cứu nơi biên ải,
Người mệt miễn dấn bùn.
Tể tướng làm mưa dầm,
Nhà nông được cày bừa.
Kẻ muốn yên thu mình nơi thôn dã,
Đám có tài đầy cửa nhà quan to.
Tráng sĩ nào lại chịu tay không,
Nơi nghèo khổ khiến con người ta thấp xuống.
Tiễn em lên núi Hoàng,
Kêu to dựa vào thang trời.
Thuyền nhỏ như chim le,
Thuyền lớn như cá kình, cá ngạc.
Mở buồm hứng gió dài,
Cuộn lại khí ngang mây.
Mặt trời đến bến Ngưu thì tối,
Buổi chiều mênh mang đầy những khói mê.
Nhớ nhau định hứa sao đây?
Mất hút ở phía tây Lạc Dương.


Lăng Hiêu đài: trên núi Hoàng Sơn, phủ Thái Bình, do Lưu Tống (tức Lưu Dụ đời Tống Nam Triều) lập ra.

Bài thơ này làm tháng 5 năm Thiên Bảo thứ 14 (755) đời Đường Huyền Tông tại Đương Đồ (An Huy). Lý Bạch lên Lăng Hiêu đài tiễn em họ tên Lý Tế làm chức uý tại Lật Dương (Đan Dương) nhưng Lý Tế bận chỉ huy đoàn thuyền chở lương thực đến Hoa Âm (tây Lạc Dương).

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Ngô Văn Phú

Chim phượng cùng với chim loan,
Dang cánh bay tít lên tầng mây xanh.
Sáng trưng năm sắc trên mình,
Cùng nhau đậu ở cây quỳnh ngọc sang.
Sớm nao bay mất vội vàng,
Cất tiếng kêu, phượng cùng loan, dập dồn.
Tháng năm trời tựa lò nung,
Nắng ong rực đỏ đã cồn thân đê.
Lên thuyền em phải xông pha,
Ngậm ngùi lặng ngắt lòng ta buổi này.
Đất Tần cỏ vắng, buồn thay,
Phương Nam trống trận động mây cao vời.
Đứa vua, ngự thiện giảm rồi,
Sớm mai gà gáy bồi hồi nhớ nhung.
Giúp biên ải, đáp thuyền sông,
Những ai mệt mỏi chân không lội bùn.
Chuộng yên, vui với cỏ vườn,
Kẻ tài gần chốn quyền môn sang giàu.
Tay không tráng sĩ chịu sao,
Khi nghèo phận thấp vận vào xưa nay.
Hoàng sơn, ta tiễn em đây,
Than dài, đứng tựa thang trời là ta.
Thuyền con nhẹ cánh nhạn sa,
Như kình, như ngạc, bộn bề thuyền to.
Giong buồm mà đón gió no,
Cuốn buồn khi đã mập mờ trong mây.
Bến Ngưu nắng ngả về tây,
Khói mê chiều đã vương đầy lối xa.
Nhớ nhau chẳng hẹn nổi mà,
Phía Tây mờ khuất chính là Lạc Dương!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Môn toả hoàng hôn,
Nguyệt tẩm mai hoa lãnh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

登黃山凌□台送族弟溧陽尉濟充泛舟赴華陰

Lăng Hiêu Đài 凌歊臺 : trên núi Hoàng Sơn , phủ Thái Bình do Lưu Tống ( tức Lưu Dụ đời Tống Nam Triều ) lập .
Theo Khang Hy tự điển : 歊 : âm HIÊU 囂 .

Bài thơ này Lý Bạch làm năm 755 (Đường Huyền Tông Thiên Bảo thập tứ )tháng 5 tại Đương Đồ ( An Huy) .
Lý Bạch lên Lăng Hiêu Đài tiễn em họ tên Lý Tể làm chức Uý tại Lật Dương ( Đan Dương ) nhưng Lý Tể bận
chỉ huy đoàn thuyền chở lương thực đến Hoa Âm ( tây Lạc Dương )

Chữ SUNG PHIẾM CHU : chữ SUNG , gánh vác , đảm nhận theo các sách chú giải có thể viết THỐNG 统 , có nghĩa
thống lãnh , chỉ huy .

Như vậy đề bài có thể dịch :

Lên đài Lăng Hiêu núi Hoàng tiễn em là Lật Dương uý (Lý) Tế bận đáp thuyền đi Hoa Âm

Theo trang : 登黄山凌歊台送族弟溧阳尉济充泛舟赴华阴_百度百科 -

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Sửa

Dạ em đã sửa lại ạ ._.
Bản dịch của Ngô Văn Phú hình như thiếu 2 câu ạ.

Môn toả hoàng hôn,
Nguyệt tẩm mai hoa lãnh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Ngô Văn Phú

NVP dịch rất hay bị như thế này :D

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời