Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Lê Thánh Tông » Thơ chữ Hán
Đăng bởi tôn tiền tử vào 02/10/2014 04:09
Cái văn:
Quân tử thành đức chi danh, quý hồ hữu thể hữu dụng;
Nho giả vị kỷ chi học, yếu tại thành thuỷ thành chung.
Cẩu đán tịch chi bất cần;
Tắc công phu chi hữu gián.
Hạ Vũ đại thánh, tứ tứ do tích thốn âm;
Tăng Tử đại hiền, miễn miễn thượng gia tam tỉnh.
Hán Đồng Tử hạ duy nhi lệ sĩ;
Đường Xương Lê kế quĩ dĩ thành công.
Bỉ hà nhân, ngã diệc hà nhân, vi chi nhược thị;
Cổ thử lý, kim đồng thử lý, chí giả cánh thành.
Nhữ đẳng:
Sinh hồ thiên địa chi gian,
Đồng đắc âm dương chi khí.
Vật các phó vật, tuy vân hoặc thuần hoặc bác chi thù;
Nhân chi vi nhân, diệc hữu hi thánh hi hiền chi chí.
Tiên cẩn kỳ sái tảo, ứng đối, tiến thoái chi tiết;
Thứ cập phù lễ nhạc, xạ ngự, thư số chi văn.
Toạ như thi, lập như trai, học nhi thời tập;
Chính kỳ tâm, thành kỳ ý, đức cầu nhật tân.
Hàm vịnh hồ, kỳ sở dĩ tri;
Mãnh miễn hồ, kỳ sở vị chí.
Kinh giả, tải đạo chi khí, tất dụng lực dĩ giảng cầu;
Sử giả, ký sự chi thư, tất dụng tâm nhi suy cứu.
Dĩ khảo thánh hiền chi thành pháp;
Dĩ cầu sự lý nhi đương nhiên.
Nhã ngôn mạc thiết ư Thi Thư, Thi Thư cần nãi hữu;
Hành đạo mạc tiên ư Lễ Nhạc, Lễ Nhạc bất khả vô.
Trầm tiềm hồ Bát quái, Cửu trù;
Xuất nhập hồ Bách gia chư tử.
Đại hiền vi sư, thứ hiền vi hữu, thân sư thủ hữu hữu phương;
Xuất sự kì trưởng, nhập sự kỳ huynh, kính trưởng ái huynh tân đạo.
Bất tuần tư dục nhi vi lý;
Đãn đương chủ thiện vi sư.
Khí tập sở di, đương giới phù kiêu chi nhất tự;
Đạo lý tối đại, giai thủ chư thân chi lưỡng bàng.
Hữu chân thực tiễn lý chi công;
Vô liệp đẳng can dự chi thất.
Năng định năng tĩnh, năng lự năng đắc, sở tạo giả thâm;
Như thiết như tha, như trác như ma, ích cầu kỳ chí.
Ký hữu đắc chi ư kỷ,
Hựu đương suy dĩ cập nhân.
Tài dưỡng bất tài, trúng dưỡng bất trúng, tư chi giả chúng;
Thành bất độc thành, lập bất độc lập, đức tất hữu lân.
Nhân chi thục, nghĩa chi tinh;
Công chi sùng, nghiệp chi quảng.
Do thị nhi cùng kinh chí dụng;
Do thị nhi học cổ nhập quan.
Thủ Hán thất chi tử thanh, đãi đồng thập giới;
Trạc Tống triều chi khoa đệ, hữu nhược bạt tì.
Nhân tranh khán kim bảng đề danh;
Thời cộng đổ thanh vân đắc lộ.
Bộ ngọc đới kim chi khách, tiếp chủng liên kiên;
Chấp tiên phụ nỗ chi đồ, hô tiên ủng hậu.
Đăng hoả chi sơ tâm bất phụ;
Công danh chi tố chí hoạch thường.
Dĩ văn chương nhi phủ phất hoàng du;
Dĩ đạo đức nhi sênh dung dã hoá.
Tí dân tôn chủ, lợi trạch cập ư đương thời;
Dương danh hiển thân, sự nghiệp thuỳ ư hậu thế.
Thị giai cần dĩ vi thượng;
Cố năng lộc tại kỳ trung.
Thảng hoặc:
Bất học bất tư;
Tự thí tự bạo.
Muội mục ư điển mô chi huấn, mậu mậu hà tri;
Mê tâm ư phong nguyệt chi trường, yêm yêm võng giác.
Song khích chi quang âm mị duyệt;
Thành nam chi đăng hoả bất cần.
Nghiệp hoang vu hy, kê khuyển chi tâm dị phóng;
Học tựu vị kỷ, hồng hộc chi chí dĩ di.
Tể Dư chi mộc bất khả điêu,
Từ Tử chi thuỷ mạc tri bản.
Sơn vi cửu nhẫn, nhất quĩ do khuy;
Tỉnh vị cập tuyền, bán đồ nhi phế.
Ngoã phiến chi tài mạc dụng;
Tỳ ô chi dịch cam vi.
Trì khu huy hạ chi binh, hung sinh cơ sắt;
Bôn tẩu mã tiền chi tốt, bối xuất trùng thư.
Ngũ phù xích tịch chi đồ lao;
Tỳ tất nô nhan chi khả quý.
Lỗ mãng nhi canh, lỗ mãng nhi hoạch, quyết cữu y thuỳ?
Khốn khổ kỳ thân, khốn khổ kỳ tâm, phệ tê hà cập!
Khởi thời tác thê noa chi luỵ;
Ngưỡng diệc cô phụ mẫu chi ân.
Hồi khán ý cẩm chi vinh;
Không bão hậu nhan chi sỉ.
Phù!
Nhân chi tiếu dữ bất tiếu, ư thị phán yên;
Tại học chi cần dữ bất cần, vi hà như nhĩ.
Ngô ngôn cập thử;
Nhữ đẳng ký chi!
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/10/2014 04:09
Từng nghe:
Người quân tử được gọi là “Thành Đức”, quý ở chỗ có đủ cả “thể” cả “dụng”;
Bậc Nho giả cầu “cái học vị kỷ”, thì cần phải có thuỷ có chung.
Nếu sớm tối không cần cù,
Thì công phu bị gián đoạn.
Kìa:
Bậc đại thánh như vua Hạ Vũ, còn tiếc nuối từng tấc quang âm;
Bậc đại hiền như ngài Tăng Sâm, vẫn mỗi ngày xét mình ba lượt.
Đổng Tử đời Hán, buông rèm mà khích lệ kẻ sĩ;
Xương Lê đời Đường, kiên trì mà đi tới thành công.
Kẻ kia là người, ta cũng là người, mà họ làm được như thế;
Xưa vẫn lý ấy, nay vẫn lý ấy, cốt có chí thì làm nên.
Các người:
Sinh ra ở trong vòng trời đất,
Cùng bẩm thụ khí âm dương.
Mỗi một sự vật, tuy trời phú có thuần tạp khác nhau;
Nhưng đã là người, ai cũng có chí noi theo bậc hiền bậc thánh.
Trước hết, phải tẩy rửa cho trong sạch, ứng đối, tiến lui cho phải phép;
Thứ đến, học các môn lễ nhạc, xạ ngự, thư số khác nhau.
Ngồi ngay ngắn, đứng trang nghiêm, học rồi thường xuyên luyện tập,
Tâm ngay chính, ý chân thành, đạo đức ngày càng thêm mới.
Đào sâu kỹ những điều đã học;
Hăng say tìm những điều chưa thông.
Thể loại “kinh” là thứ chở đạo, phải dốc sức mà giảng cầu;
Thể loại “sử” là sách ghi việc, phải dụng tâm mà suy cứu.
Từ đó, khảo cứu phép tắc của thánh hiền;
Từ đó, nắm vững quy luật của sự lý.
Lời đẹp chẳng gì bằng Kinh Thi, Kinh Thư, Thi, Thư cần phải có;
Hành đạo chẳng gì hơn Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Lễ, Nhạc chẳng thể không.
Lặn ngụp nơi Bát quái, Cửu trù;
Ra vào chốn Bách gia, chư tử.
Tìm bậc đại hiền làm thầy, tìm bậc thứ hiền kết bạn, gần gũi thầy bạn đúng phương châm;
Ra thờ bậc trưởng, vào thờ bậc anh, kính trưởng mến anh hết đạo.
Chớ chạy theo dòng tư dục mà làm trái sự lý;
Những nên coi việc thiện làm thầy.
Khí chất do thói quen mà đổi thay, hãy răn giới một chữ kiêu mạn;
Đạo lý cao nhất cốt ở chỗ, giữ gìn quan hệ xung quanh.
Rèn công phu thực tiễn chân thành;
Chớ mắc lỗi săn lùng danh tiếng.
Có định có tĩnh, có lự có đắc, thành quả mới cao;
Như thiết như tha như trác như ma, cầu tiến bộ mãi.
Bản thân đã có sở đắc;
Lại mong mở rộng cho người.
Người tài dạy người bất tài, người đúng dạy người chưa đúng, giúp đỡ thêm đông đảo;
Thành tựu chẳng riêng mình, lập thân chẳng mình ta, đức vọng thêm bạn hữu.
Nhân càng thục, nghĩa càng tinh;
Công càng cao, nghiệp càng lớn.
Từ đó mà ra sức áp dụng điều sở học;
Từ đó mà noi theo cổ nhân học làm quan.
Giành chức quan cao nhà Hán xưa, khác nào cúi nhặt hạt cải;
Giật lấy khoa bảng nhà Tống nọ, chỉ như nhổ đứt sợi râu.
Người tranh xem bảng hổ đề tên;
Đời ngưỡng vọng đường mây nhẹ bước.
Cùng khách đai vàng bội ngọc, tiếp gót liền vai;
Một đoàn đeo nỏ cầm roi, tiền hô hậu ủng.
Tấm lòng đăng hoả ngày xưa thật chẳng phụ;
Nguyện ước công danh thuở nọ được đền bồi.
Nhờ văn chương mà địa vị rõ ràng;
Nhờ đạo đức mà tục dân giáo hoá.
Giúp dân giúp chủ, lợi ích thấm khắp đương thời;
Bản thân cha mẹ vẻ vang, sự nghiệp lưu truyền hậu thế.
Tất thảy đều nhờ cần cù là trên hết,
Vậy nên bổng lộc sẵn ở trong.
Thế mà chẳng học, chẳng suy;
Chính là tự mình vứt bỏ.
Tối tăm lời dạy ở mô điển, ú ớ chẳng hay;
Ham mê say đắm chốn gió trăng, mịt mờ chẳng tỉnh.
Bóng quang âm nơi khe cửa thấm thoát chẳng tỏ;
Ngọn đèn nơi thành nam le lói chẳng chăm.
Ham mê các trò vui, cái tâm kê khuyển dễ buông thả;
Học mới được mấy tý, cái chí hồng hộc đã thay rồi.
Như Tể Dư, gỗ mục chẳng thể dùng;
Như Từ Tử, dòng nước chẳng biết mạch.
Núi cao chín nhẫn, thiếu một sọt đất chẳng thành;
Giếng chẳng có mạch nguồn, giữa đường đành vứt bỏ.
Cái tài cỏn con chẳng dùng được;
Công việc hèn mọn phải cam làm.
Rong ruổi làm quân dưới cờ, ngực sinh rận rệp;
Bôn tẩu làm lính trước ngựa, lưng đầy bọ giòi.
Vất vả thân đầy tớ dốt ngu;
Khúm núm hèn mọn thật xấu hổ.
Cẩu thả cày cấy, cẩu thả thu hoạch, lỗi ấy vì đâu?
Khốn khổ cái thân, khốn khổ cái tâm, hối hận sao kịp!
Há chỉ làm luỵ tới thê tử;
Mà còn phụ ơn cả mẹ cha.
Ngoảnh nhìn người áo gấm vẻ vang;
Thật đáng xấu hổ và sỉ nhục!
Kìa:
Làm người tốt và không tốt, phân biệt chỉ chỗ đó mà thôi;
Học chăm hay không chăm, còn gì khác như thế nữa!
Ta có vài lời như vậy;
Các ngươi hãy nhớ lấy!