15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn bát cú
Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
10 bài trả lời: 7 bản dịch, 3 thảo luận
2 người thích

Đăng bởi hongha83 vào 21/09/2008 19:29, đã sửa 4 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 17/07/2018 11:21

征刁吉罕還過龍水堤

崎嶇險路不辭難,
老我猶存鐵石肝。
義氣掃空千嶂霧,
壯心夷盡萬重山。
邊防好爲籌方略,
社稷應須計久安。
虛道危灘三百曲,
如今只作順流看。

 

Chinh Điêu Cát Hãn hoàn quá Long Thuỷ đê

Kỳ khu hiểm lộ bất từ nan,
Lão ngã do tồn thiết thạch can.
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,
Tráng tâm di tận vạn trùng san.
Biên phòng hảo vị trù phương lược,
Xã tắc ưng tu kế cửu an.
Hư đạo nguy than tam bách khúc,
Như kim chỉ tác thuận lưu khan.

 

Dịch nghĩa

Đường gồ ghề hiểm trở, chẳng ngại khó khăn,
Ta tuy già mà gan còn vững như sắt đá.
Nghĩa khí quét sạch nghìn lớp mây mù,
Tráng tâm san phẳng muôn trùng núi non.
Lo việc biên phòng cần có phương lược sẵn sàng,
Giữ nền xã tắc nên tính kế dài lâu.
Lời truyền ba trăm ngọn thác quanh co rất nguy hiểm đã thành lời hư không,
Ngày nay chỉ coi như nước thuận dòng chảy xuôi.


Tự: “Dư chinh Cát Hãn hồi quá thử, tác thi nhất chương dĩ thị hậu thế ngự nhung chi đạo. Mường Lễ chư man, nhân diện thú tâm, như hữu cạnh hoá, tuỳ tức tiễu tuyệt. Vật thiện kỳ hiểm trở chướng lệ, đương dĩ thiên hạ sinh linh vi niệm. Nhi kỳ xuất chinh phương lược tắc Thao Đà nhị trấn thuỷ lộ tiến binh vi ưu, vân...” 予征吉罕回過此,作詩一章以示後世馭戎之道。忙禮諸蠻人面獸心,如有梗化,随即剿絶。勿憚其險阻瘴癘,當以天下生靈爲念。而其出征方略則洮沱二鎮水路進兵爲優,云 (Ta đánh Cát Hãn trở về đến đây, làm một bài thơ để cho hậu thế rõ về đường lối chinh phạt. Các man ở Mường Lễ mặt người dạ thú, hễ tỏ ra cứng cổ phải tiêu diệt ngay. Chớ ngại hiểm trở, lam chướng, mà phải nghĩ cho sinh linh trong thiên hạ. Và phương lược xuất chinh tốt nhất là thuỷ bộ từ hai trấn Thao, Đà cùng tiến. Thơ rằng...).

Lạc khoản: “Thuận Thiên ngũ niên, Nhâm Tý tam nguyệt thượng hoãn nhật đề” 順天五年壬子三月上澣日題 (Đề năm thứ 5 niên hiệu Thuận Thiên 1432, ngày cuối thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tý).

Bài thơ này được khắc trên phiến đá tại phố Vạn Bờ, xã Hào Tráng, châu Đà Bắc (Hưng Hoá), không đề tên người viết. Khi xây dựng Thuỷ điện Hoà Bình, khối đá này được di dời và hiện được lưu giữ tại Khu di tích Đền Thác Bờ, Hoà Bình. Sách Hoàng Việt thi tuyển chép bài thơ này đề tác giả là Lê Thái Tổ, nhưng lạc khoản chép “Thuận Thiên nhị niên mạnh hạ cốc nhật đề” 順天二年孟夏穀日題 tức mùa hè năm 1429, khác với ngày tháng trên nguyên bản, tuy nhiên theo chính sử chép thì Lê Lợi đi đánh Đèo Cát Hãn trong thời gian 1431-1432, không thể đề thơ năm 1429.

Đèo Cát Hãn là một tù trưởng ở châu Ninh Viễn (sau đổi là châu Phục Lễ, tức Lai Châu). Cát Hãn trước theo giặc Minh, sau đầu hàng Lê Thái Tổ, được ít lâu lại cùng với Kha Lại nước Ai Lao làm phản, do đó Thái Tổ phải thân chinh đi đánh dẹp.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (10 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Ngô Mạnh Nghinh

Đường hiểm cheo leo cứ tiến tràn
Ta già sắt đá vẫn bền gan
Khí hào quét sạch hơi lam chướng
Dạ vững san bằng núi ngút ngàn
Tính việc biên phòng cho vững chắc
Toan bề xã tắc được bình an
Ai rằng thác réo ba trăm khúc
Thuyền thả xuôi dòng hết hiểm gian.

Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
35.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phụng Hà

Chênh vênh đường hiểm chẳng nề hà,
Lão nầy sắt đá, gan vẫn già.
Lòng ngay, mù chướng cứ quét sạch,
Chí mạnh, núi ngăn hãy xẻ ra.
Ngoài lo phương lược yên bờ cõi,
Trong bày kế sách vững nước nhà.
"Sông ba trăm thác", lời hư vọng,
Thuận dòng nay cứ lướt thuyền xa.

14.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phụng Hà

1)Vài sai sót trong việc phiên âm :
Đầu đề:
Chinh Điêu Cát HÃN HOÀN, quá Long Thủy đê

Câu 1:
KHI khu hiểm lộ bất từ nan
(khi khu: đường núi gập ghềnh)

2) Các bài thơ của vua Lê Thái Tổ:
Trừ bài thơ nầy, theo ý tôi, ít nhất còn 2 bài nữa:

Bài 1:
Trong Đại Việt sử ký toàn thư (tác giả Lê Sĩ Liên, thế kỷ 15, Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1993) ghi sự kiện năm 1430 như sau:

Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ 3 (1430)
...
  Mùa đông, tháng 11, vua đi đánh bọn nghịch tặc ở châu Thạch Lâm, trấn Thái Nguyên,... Vua đến Thạch Lâm, có đề thơ trước cửa động rằng:
Bất từ vạn lý chinh sư đồ,
Duy dục biên manh xích tử tô.
Thiên địa bất dung gian đảng tại,
Cổ kim thùy xá bạn thần chu.

(Chẳng từ muôn dặm cất quân đi,
Mong cứu dân đen cõi biên thùy.
Trời đất không dung phường gian ác,
Xưa nay tội phản phải tru di. )
...

Bài 2:
Cũng trong sách đã dẫn, lời ghi chú về việc vua thân chinh đi đánh Đèo Cát Hãn ở Phục Lễ năm 1431 cho biết rằng: khi đem quân đi đánh, vua cho khắc bài thơ ở Pú Huôi vào mùa đông năm Tân Hợi (1431) và khi đắc thắng trở về, khắc thơ ở Thác Bờ vào tháng ba năm Nhâm Tý (1432), tức là bài "Chinh Đèo Cát Hãn hoàn,..." đã được đăng trên Thi Viện.

23.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Chữ Hán của bài thơ:

Tôi gửi phần chữ Hán của bài thơ. Ba chữ Điêu Cát Hãn (tên của tù trưởng) có thể sai lầm

征琱佶扞完 ,过龍水堤   
 
崎嶇嶮路不辞难 ,     
老我猶存鉄石肝 。     
義氣埽空千雾嶂 ,    
壮心移盡萬重山 。   
边防為好筹方略 ,     
社則應修計久安 。   
虚道危滩三百曲 ,     
如今只作順流着 。

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Thơ vịnh Sử

-VUA LÊ THÁI TỔ  (?-1428)

Hào kiệt anh hùng Bình Định Vương                                 
Thuận Thiên niên hiệu tế Thăng Long                                                
Chí Lăng chiến thắng… Thăng đền tội                         
Đại cáo Bình Ngô… Trãi lập công                         
Thành Tổ vua Minh dòng Hán tộc                              
Lê Lai cứu chúa bậc tôi trung                             
Lam Sơn địa chí… vinh hồng sử                                 
Thái Tổ hậu Lê rạng núi sông…

Thiềng Đức - 24/9/2008

-Một chân lí đã "ngộ" ra và tôn thờ:
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ Tài"
Nguyễn Du
23.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Gian nan nào ngại cách non sông
Già cả mà ta vẫn vững lòng
Nghĩa khí dẹp tan mù mấy lớp
Tráng tâm san phẳng núi muôn trùng
Phòng ngưa bờ cõi cần ra sức
Giữ vững cơ đồ phải gắng công
Đồn: Thác, suối ba trăm khúc hiểm
Nay xem đã thuận nước xuôi dòng


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
25.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Long

Sá gì đường hiểm những chon von,
Sắt đá ta đây dạ chẳng mòn.
Nghĩa khí quét tan nghìn móc độc,
Tráng tâm san phẳng vạn ngàn non.
Biên phòng phương lược đà toan sẵn,
Xã tắc dài lâu phải liệu tròn.
Duềnh dữ ba trăm đều chuyện khoác,
Sông nay chỉ thấy nước xuôi bon.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Tú Anh

Đường hiểm hề chi, chẳng ngại chi,
Ta già, sắt đá khó ai bì.
Mây mù tâm sáng xua tan hết,
Núi thẳm lòng ngay gạt phẳng lỳ.
Phương lược biên phòng cần lo sẵn,
Kế mưu giữ nước phải bàn đi.
Lời truyền rùng rợn: “ba trăm khúc”
Đã hoá hư không, thuận bước hì!

15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Trọng Điềm

Gập ghềnh hiểm hóc chẳng từ nan,
Già vẫn nguyên còn sắt đá gan.
Hào khí nghìn mù đều sạch quét,
Tráng tâm muôn núi cũng bằng san.
Biên phòng tất khéo mưu phương lược,
Xã tắc nên trù kế cửu an.
Ghềnh thác ba trăm đừng nói nữa,
Như nay dòng thuận chỉ xuôi nhàn.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Gâp ghềnh hiểm trở chẳng từ nan,
Già  lão ta bền chí sắt gang,
Nghĩa khí mây mù ta quét sạch,
Tráng tâm san phẳng núi non ngàn.
Biên phòng lo việc cần phương lược,
Xã tắc giữ nền vẫn rất an,
Ghềnh thác ba trăm lời nói hiểm,
Thuận dòng nay thấy nước xuôi làn.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời