出獄感作

南冠而縶十餘年,
優渥鴻霑降自然。
擢髮難酬新雨露,
囘頭恐負舊山川。
忠魂他日餘恩補,
苦節如今宿志全。
紅日方升高爥照,
肯教冀北有啼鵑。

 

Xuất ngục cảm tác

Nam quan nhi trập thập dư niên,
Ưu ác hồng triêm giáng tự nhiên.
Trạc phát nan thù tân vũ lộ,
Hồi đầu khủng phụ cựu sơn xuyên.
Trung hồn tha nhật dư ân bổ,
Khổ tiết như kim túc chí tuyền (toàn).
Hồng nhật phương thăng cao chúc chiếu,
Khẳng giao ký bắc hữu đề quyên.

 

Dịch nghĩa

Mũ phương nam nên bị giam mười năm,
Tự nhiên được ơn từ trên giáng xuống.
Xoã tóc không báo được ơn mưa móc mới,
Nhìn lại sợ rằng mình đã phụ núi sông xưa.
Hồn trung ngày khác sẽ đền bù ân thêm nữa,
Khổ tiết nên hôm nay chí mới được toàn vẹn.
Mặt trời lên cao chiếu sáng xuống,
Ai ngờ ở đất bắc mà cũng có tiếng chim quyên kêu.


Nguyên chú: “Năm Gia Khánh thứ 5, được phóng thích khỏi ngục, di chuyển đến phía tây kinh thành, an trí ở miếu Tây Đính, bên ngoài xưởng nhuộm Hoả Khí doanh. Đầu tóc quần áo được tự tiện, được thăm viếng mộ vua, con cái gia nhân được tới thăm. Ông tức cảm làm thơ, một bài.”

Tiêu đề và nguyên chú của bài thơ lấy theo Nam thiên trung nghĩa thực lục in trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tập thành, quyển 18 (Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2010). Dịch nghĩa của Nguyễn Duy Chính.

Năm 1800, Lê Quýnh cùng bốn người bị giam trong ngục ở Bắc Kinh sau hơn mười năm thì được tha nhưng chỉ được sống ở 12 dặm phía tây kinh thành bên ngoài xưởng nhuộm của Hoả Khí doanh là nơi quản việc chế tạo các loại súng ống lớn nhỏ. Khi hay tin vua Lê Chiêu Thống đã qua đời (năm 1793), ông làm bài này.


[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Xuất ngục cảm tác

Bài thơ này trong tập Nam thiên trung nghĩa thực lục (Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tập thành, quyển 18, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2010) có tiêu đề Xuất ngục cảm tác (出獄感作). Ở đó còn có nguyên chú như sau: "Năm Gia Khánh thứ 5, được phóng thích khỏi ngục, di chuyển đến phía tây kinh thành, an trí ở miếu Tây Đính, bên ngoài xưởng nhuộm, doanh Hoả khí. Đầu tóc quần áo được tự tiện, được thăm viếng mộ vua, con cái gia nhân được tới thăm. Ông  tức cảm làm thơ, một bài".   

Có một số chữ hơi khác so với bản trong Nam thiên trung nghĩa thực lục:
- nhi chấp 而縶: bản Nam thiên trung nghĩa thực lục là hữu hệ 有繫.
- dư ân 餘恩: bản Nam thiên trung nghĩa thực lục là thâm ân 深恩.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đông A

Mũ nam buộc chặt mười năm lẻ
Thấm đẫm tự nhiên trút thãi thừa
Gọt tóc khó đền mưa móc mới
Ngoảng đầu e phụ núi sông xưa
Hồn trung ngày trước ơn sâu nặng
Tiết tháo giờ đây chí cũ vừa
Vầng nhật lên cao soi chiếu khắp
Đành giao Kí Bắc tiếng quyên đưa

Chưa có đánh giá nào
Trả lời