Đăng bởi Vanachi vào 16/02/2018 23:35
書香世閥重儒林,
丗九年來履歷深。
濟理足稱唐國寶,
惠閒奚吝漢庭金。
德江勝槩供頤養,
台嶺耆朋樂豫簪。
初政正今求舊切,
虞隣周輔更何心。
Thư hương thế phiệt trọng nho lâm,
Táp cửu niên lai lý lịch thâm.
Tế lý túc xưng Đường quốc bảo,
Huệ nhàn hề lận Hán đình kim.
Đức Giang thắng khái cung di dưỡng,
Thai lĩnh kỳ bằng lạc dự trâm.
Sơ chính chính kim cầu cựu thiết,
Ngu lân Chu phụ cánh hà tâm.
Dòng thế phiệt thi thư được làng nho trọng vọng
Ba mươi chín năm qua từng trải đã nhiều
Làm việc đủ khen là quốc bảo nhà Đường
Ban thưởng đâu tiếc bạc vàng như nhà Hán
Dải Thiên Đức kỳ thắng giúp di dưỡng
Núi Thiên Thai ngạo nghễ vui dự cùng
Mới làm chính nên cần giúp rập
Hiền nhân phò giúp có hạng nào đâu
Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]
Gia thế trọng nho tự thủa nào
Hai mươi chín tiết mấy công lao
Phò Đường bền vững thân danh sáng
Giúp Hán yên bình trụ cột cao
Sông Đuống tháng ngày buồm thưởng ngoạn
Thiên Thai đồi núi bạn tiêu dao
Ngôi mới cựu thần cần giúp giập
Lễ nào nhàn tản xóm làng sao?
Gửi bởi Vanachi ngày 16/02/2018 23:39
Trong Thông báo Hán Nôm học năm 2004 chúng tôi đã giới thiệu dấu tích thủ bút của Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Văn Thậm trên văn bản Hán Nôm thời Tây Sơn. Bài viết này xin được giới thiệu chứng tích ngự bút của vua Lê Hiển Tông thời Lê Trung hưng khắc trên tấm bia đá ở xã Phương Triện, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Tấm bia này được dựng tại lăng mộ Trần tướng công ở Phương Triện, dòng họ Trần là dòng họ nổi danh mấy đời khắp Bắc Ninh và kinh thành Thăng Long cuối thời Trung hưng. Đặc điểm, kích cỡ tấm bia có khác với đa số bia đá cùng thời. Bia có kích thước 68x98cm, chất liệu bằng đá. Tổng thể hình chữ nhật đứng, không có trán bia, không có rìa cạnh khắc hoa văn trang trí. Trên đầu tấm bia là 4 chữ đầu đề Thư bút ngự tứ 書筆御賜 khắc theo kiểu chữ Triện - Lệ xếp theo chiều ngang ngăn với phần chính văn ở dưới bằng một đường viền ngang. Toàn văn chữ Hán viết lối đá Thảo được khắc lại trên đá phân làm bảy dòng xếp theo chiều dọc. Tổng số có 56 chữ khắc chìm viết theo thể Thất ngôn liền mạch. Bia không có hàng ghi niên đại, chỉ có 3 chữ Trùng tứ đề viết nhỏ hơn chữ ở phần chính văn, được khắc cách quãng chếch phía dưới cuối bài thơ. Dưới 3 chữ này là hình con dấu khắc vuông bên trong có 4 chữ Triện.
Bia Thư bút ngự tứ đã được giới thiệu sơ lược phần phiên âm dịch nghĩa trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam(1). Thác bản bia hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu N04207. Dưới đây là đoạn phiên âm và dịch nghĩa bài Thư bút ngự tứ.
Phiên âm:
Thư hương thế phiệt trọng Nho lâmDịch nghĩa:
Trấp cửu niên lai lý lịch thâm
Tế lý túc xưng Đường quốc bảo
Huệ nhàn hề lận Hán đình câm (kim)
Đức giang thắng khái cung di dưỡng
Thai lĩnh kì bằng lạc dự trâm
Sơ chính chính kim cầu cố thiết
Ngu... chu phụ cách hà tâm
Dòng thế phiệt thi thư được làng Nho trọng vọngVề xuất xứ bài thơ được khắc trên tấm bia lăng mộ này. Đây là bài thơ ngự bút của vua Lê Hiển Tông viết tặng ông Trần Danh Lâm 陳名林 Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731) làm quan đời Lê Cảnh Hưng. Trần Danh Lâm hiệu là Khiêm Trai người làng Bảo Triện, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh năm Ất Dậu đời Vĩnh Thịnh là người nổi tiếng thông minh có tài văn chương. Năm 19 tuổi ông đã đỗ Hương giải. Khoa thi năm Tân Hợi (1731) ông đỗ Tiến sĩ, được bổ chức Nhập thị Bồi tụng, qua nhiều chức vụ sau thăng đến chức Thượng thư Bộ Hình - tước Du Nhạc hầu. Ông về hưu trí năm Kỷ Sửu và đến năm Đinh Dậu thì qua đời, thọ 73 tuổi. Khi ông mất Lê Hiển Tông rất thương xót cử đại thần Lê Quý Đôn cùng gia quyến tổ chức lễ tang và đọc văn tế. Ông được truy tặng Thiếu bảo tướng công và ban tên thuỵ là Trung Lượng.
Hai mươi chín năm qua từng trải đã nhiều
Làm việc đủ khen là quốc bảo nhà Đường
Ban thưởng đâu tiếc bạc vàng như nhà Hán
Dải Thiên Đức kỳ thắng giúp di dưỡng
Núi Thiên Thai ngạo nghễ vui dự cùng
Mới làm chính nên cần giúp rập
Hiền nhân phò giúp có hạng nào đâu(2)
Gửi bởi Vanachi ngày 16/02/2018 23:44
Chúa Trịnh Sâm (1739-1782) là một nhân vật gây nhiều tranh cãi. Mảng tối nhiều hơn mảng sáng. Trong thời gian trị vì của ông, lịch sử đã khảng định đây là một thời Thịnh trị. Rất nhiều nhân tài đã xuất hiện ở triều đại này. Ông đã biết nhìn người và dùng người như: Phạm Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Sĩ, Lê Quí Đôn… và một khối lượng “thạch thi” đồ sộ và bát hủ đã phần nào nói đến sự nghiệp của ông.
Trinhtoc.com giới thiệu một bài thơ vừa phát hiện ở Gia Bình, Bắc Ninh. Bài thơ đã nói lên sự cầu thị, mong muốn những người có năng lực cùng ông gánh vác việc nước.
Bài thơ được khắc trên bia mộ cụ Bảo Huy hầu Trần Danh Lâm, tiến sĩ khoa 1729. từng là Thượng thư bộ binh, đã nghỉ hưu. Tấm bia hiện còn ở thôn Phương Triện, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, Bắc Ninh. người sưu tầm và dịch nghĩa là ông Phạm Thuận Thành (quê Thường Vũ, xã An Bình, huyện Thuận Thành). Duy Phi dịch nghĩa.
Bài thơ như sau:
Thư hương thế phiệt trọng nho lâm.Dịch nghĩa:
Chấp cửu niên lai lí lịch thâm
Tế lí túc xương Đường quốc bảo
Huệ nhàn hề lận Hán đình kim
Đức Giang thắng khái cung di dưỡng
Thái lĩnh kỳ bằng lạc dự trâm
Sơ chính chính kim cầu cựu thiết
Ngu lân chu phụ cánh hà tâm
Thư hương thế phiệt nếp nhà trong việc học hànhDịch là:
Đã có 29 năm làm quan giúp nước
Tài kinh bang tế thế đáng mặt danh nhân đời Đường
Giữ yên đất nước có thể ngang bằng với trụ cột nhà Hán
Nay lấy thắng cảnh sông Đức Giang làm nơi bồi dưỡng tinh thần
Lấy núi Thiên Thai vui bầu bạn với nhau
Ta mới lên ngôi Chúa, rất cần cựu Thần giúp
Lẽ nào ngươi lại chỉ biết vui thú với xóm làng thôi ư?
Gia thế trọng nho tự thủa nào
Hai mươi chín tiết mấy công lao
Phò Đường bền vững thân danh sáng
Giúp Hán yên bình trụ cột cao
Sông Đuống tháng ngày buồm thưởng ngoạn
Thiên Thai đồi núi bạn tiêu dao
Ngôi mới cựu thần cần giúp giập
Lễ nào nhàn tản xóm làng sao?
Gửi bởi Vanachi ngày 02/10/2018 02:21
Thư hương nổi tiếng chốn nho lâm,
Chính trường tham dự ba chín năm.
Giúp nước triều Đường khen của báu,
Hưởng nhàn đời Hán nọ hoàng kâm.
Đức giang dòng chảy còn di dưỡng,
Bạn già Thai lĩnh cũng đeo trâm.
Chính mới đương mong người hiền cũ,
Triều thịnh Ngu Chu lọ khác tâm.
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 22/04/2019 16:34
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Lương Trọng Nhàn ngày 10/10/2020 15:53
Thế phiệt thi thư được trọng hầu,
Trải ba mươi chín năm qua lâu.
Khen như quốc bảo nhà Đường đó,
Tiếc tựa bạc vàng Hán thưởng đâu.
Thiên Đức cảnh quan buồm thưởng ngoạn,
Thiên Thai đồi núi bạn tiêu dao.
Mới vừa tham chính cần cùng giúp,
Phò giúp hiền nhân có hạng đâu.