Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh » Truyện thơ » Nhị độ mai
Đăng bởi Vanachi vào 11/03/2007 10:57
Ông tơ khen khéo cợt người,
880. Đã xe vào, lại thử rời bắc, nam.
Làm cho chí tái chí tam,
Rồi ra đố lại vào ngàm mới thôi.
Phủ Trần chưa hết chuyện vui,
Bỗng đâu có chỉ đến nơi quan hoài.
Đảng công, Lư Kỷ ngồi ngoài,
Truyền rằng có chỉ dạy đòi Trần gia.
Đọc rồi mới biết rằng là:
Biên quan có nước Sa đà động binh.
Khói lang, bụi ngựa tung hoành.
890. Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần.
Lư công dâng chước hoà thân,
Truyền đòi con gái họ Trần kết thân,
Ban cho áo mũ Chiêu Quân,
Đảng công vâng mệnh đưa chân cõi ngoài.
Nghe ra xiết nỗi bồi hồi,
Ấy ai mưu hiểm, giục người sinh ly?
Khởi hành đã định nhật kỳ,
Lư công giục giã ngận tuỳ quân sai.
Hạnh Nguyên ra yết nhà ngoài,
900. Ngứa gan tấm tức mấy lời vân vân:
“Vẻ chi một chút Hồ trần,
“Những tài thao lược, kinh luânđâu nào?
“Dẹp yên mượn sức má đào,
“Khen ai đặt để cái mưu cũng gìa!
“Kiếp này không xé được da.
“Kiếp sau quả báo, oan gia kẻo gì.
“Gớm tuồng mộc vị, thần vì,
“Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng.”
Lư công nghe nói ngang tàng,
910. Mắt sòng sọc khoé, mặt sường sượng gân.
Tiền đường dọn tiệc chủ, tân,
Đảng công cất lẻn vào dần nhà trong.
Trần công rỉ bảo Đảng công,
Trỏ Mai sinh mới giãi lòng một hai.
Rằng: “Này công tử họ Mai,
“Trong khi hoạn nạn lạc loài đến đây.
“Em cho nương náu những ngày,
“Rắp đem tiểu nữ sum vầy kết duyên,
“Mưu kia ai vẽ cho nên,
920. “Để loan chếch bóng cho uyên chia hàng.
“Việc nhà nhờ bác sửa sang,
“Cho cùng Trần điệt lên đường xuất quan.”
Thoắt thôi nghe có lệnh troàn:
Bốn mươi thị nữ dân gian kén rồi.
Trong danh sách bấy nhiêu người,
Cùng ra Phiên quốc theo đòi Hạnh Nguyên.
Lại truyền không được trì diên,
Trong hai ngày hạn xe tiên lên đường,
Áo Hồ đưa lại một rương,
930. Dạy cho nương tử cải trang xuất hành.
Nàng rằng: “Quân mệnh đã đành,
“Tủi mình khuê khổn, liều mình tinh triên.
“Bao giờ khỏi đất Trung nguyên,
“Bấy giờ thay áo Hồ phiên vội gì.
“Chịu trời chăng! Một chữ thì,
“Áo này dù đổi, lòng kia khôn dời!
“Đảng công khen đã nên lời,
“Cứng lòng, thiết thạch hổ người tu mi.
Thẹn thay cho kẻ vô nghì.
940. Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần.
Lời trung khêu ruột gian thần,
Bưng tai giả điếc, nổi gân bất bình.
Ngoài thì quan khách linh đình,
Trong thì nàng cũng đau tình biệt ly.
Lạy hai thân, kể mọi bề,
Châu chan nét liễu, dầm dề giọt mai.
Rằng: “Con chút phận nữ hài,
“Công cha nghĩa mẹ chốc mười mấy niên.
“Môn mi mong những nhờ duyên,
“Ngỡ đem tấc cỏ báo dền ba xuân,
“Hiểm thay chước kẻ gian thần,
“Xui nên kẻ Tấn, người Tần như không.
“Có ra chi, phận má hồng,
“Khôn đem chữ hiếu, đền công chữ cù.
“Rồi đây muôn dặm đất Hồ,
“Biết câu thập nữ viết vô từ rày.
“Xin đừng nhớ đổi, sầu thay,
“Liều bằng muôn một những ngày một hai.”
Thoắt thôi sùi sụt ngắn dài,
960. Gập ghềnh mới ngụ một bài biệt thi.
Giờ lâu lưỡng lự vân vi,
Gọi Xuân sinh lại nằn nì rỉ tai:
“Nặng vì chút nghĩa họ Mai,
“Ngẫm ra âu cũng có trời ở trong.
“Lời cha mẹ nghĩa vợ chồng,
“Nhân duyên chưa ghép, chữ đồng đã in.
“Vả xem bậc ấy không hèn,
“Rõ gương khoa giáp, rõ niềm tướng khanh.
“Nhờ em đãi lấy lòng thành,
970. “Ngoài tình bầu bạn, trong tình anh em.
2”Mọi bề trong ấm ngoài êm,
“Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng.
“Chị nhờ em gánh hiếu trung,
“Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già
“Công danh tuổi ấy đương vừa,
“Trâm anh, chung đỉnh dấu nhà sẵn đây.
“Dù thương đến chị sau này,
“Hoặc tuần hàn thực, hoặc ngày thanh minh.
“Suối vàng rưới một giọt tình
980. “Nén hương, tờ giấy, chén canh cũng là!”
Lôi thôi xiết nỗi gần xa,
Trông Mai công tử dường đưa mối sầu.
Thẹn thùng khôn nói năng đâu,
Sóng thu một lét, hạt châu đôi hàng.