Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh » Truyện thơ » Quan Âm Thị Kính
Đăng bởi Vanachi vào 23/10/2005 02:09
Mảng tin, thầy, tớ đều lo,
Dữ, lành nào biết duyên do việc gì?
495. Vâng lời sư dẫn tiểu đi,
Tay thì lần hạt, miệng thì tụng kinh.
Đến nơi làng hỏi thực tình:
“Tiểu kia đã quyết tu hành đến đây.
Sóng thu sao hãy còn lay,
500. Thị Mầu kia đã trình bày phân minh.
Nói ngay thì cũng thứ tình,
Liệu ta chớ có dối quanh nữa đòn!”
Lặng nghe đau đớn lòng son,
Kiếp tu, quả ấy có tròn được chăng?
505. Bây giờ cải dạng nam trang,
Nói ra dễ giữ thói hằng được nau!
Thật vàng dẫu lửa mà sao,
Đốt than mà thử mấy tao cũng dầu!
Trước sau nông nỗi gót đầu,
510. Rằng: “Câu không sắc dễ hầu dám sai.
Như còn bợn dạ trần ai,
Thì xin có đức Như Lai trên đầu”.
Trái tai, làng hỏi Thị Mầu,
Cứ thưa một mực trước sau rành rành.
515. Làng rằng: “Thôi chẳng oan tình,
Tiểu kia cứ thực mà trình mới xong.
Phải suy Phật ấy là lòng,
Như đường gia thất cũng không cấm nào.
Thôi đừng dối Phật, dối nhau,
520. Ăn hoa lội nước xơi rau qua rào.
Mộc thiên chẳng dỗ được nào,
Buồn mình lại quyến đứa vào vui chơi.
Giả hình làm tiểu đời đời,
Dối ai dễ dối được trời kia ru!
525. Liệu ba mươi sáu đường tu,
Chẳng thì văn bút, vũ vỗ dễ chi!”
Nời sao cũng cứ tri tri,
Túi roi vồ nọc tức thì truyền mau.
Làm cho chín khúc cùng đau,
530. Đào nhăn nhó mặt, tiểu cau có mày.
Hãy đường gặp trận gió tây,
Lá rơi rải rác, hoa bay tơi bời.
Mười phương Phật chín phương Trời,
Chưa hay đến sự dưới trời oan ru?
535. Đuốc nào soi thấu lời vu,
Bôi nhoà đen trắng lộn mù phải chăng?
Càng van, càng buộc khăng khăng,
Nỡ nào để tiếng thầy tăng giết người.