Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh
Đăng bởi Vanachi vào 21/11/2007 14:28
Than ôi!
Dòng Côn thuỷ mây lồng thức gấm, mãn vui tình mai liễu độ xuân;
Đỉnh Trường Sơn gió cuộn sóng tùng, chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.
Nhớ tôn linh xưa:
Khí cốt lăng tằng,
Anh tư khôi đặc.
Sức điều binh khiển tướng, Hạng Võ Lưu Bang,
Lòng trọng sĩ tôn hiền, Văn Vương Huyền Đức.
Tình đất nước giận cơn chia xẻ, lưỡi gươm thần dẹp loạn cứu dân;
Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn, thân áo vải giúp anh dựng nước.
Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường vân,
Thuận Hoá trời cao, chói chang vầng bạch nhật.
Xiêm phê áp phủ, trên chín trùng toan mối trị bình,
Vút dũa nanh mài, ngoài muôn dặm rắp tâm xâm lược.
Cõng rắn tội kìa ai?
Bắt hùm tay sẵn chước.
Tế trời đất đàn Giao cao vút núi, bóng tinh kỳ sáng dội buổi đăng quang,
Nhìn non sông khí giận ngất từng mây, tiếng hiệu lịnh sấm vang giờ xuất phát.
Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh!
Chiến tượng hai trăm trinh tường trận mạc.
Lòng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn nước non ca khúc khải hoàn sau.
Chỉ mười ngày dẹp giống lũ sài lang, cùng tướng sĩ chung vui nguyên đán trước.
Cạn lời uỷ lạo, trống dục cờ giong,
Dốc dạ truy tuỳ, non băng biển vượt.
Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thuỷ dồn binh,
Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hãm giặc.
Đánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng;
Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá nát.
Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt lương rừng lửa đỏ, khiến ba quan liều chết chớ lui;
Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn cổ thước khăn vàng, quyết một trận chẳng hơn thì thác.
Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ, thuốc súng chôn quanh thành, chông sắt cắm khắp luỹ, thêm bốn bề đạn rạc rào mưa;
Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván dày cột thành cốt, rơm ướt phủ làm bì, hò một rập sức cuồn cuồn thác.
Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kíp hạ, sông máu láng lai;
Thúc chân voi, Khương Thượng liều thân, núi thây chồng chất.
Nghi Đống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ Đống Đa!
Sĩ Nghị may tìm được lối ra, hớt hãi thoát thân mạn Bắc.
Ngoài ải sói gió tan múi sát khí, niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên;
Vào Thăng Long cờ rợp bóng vinh quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược.
Mười ngày hẹn trước, trời đất chứng lời vàng,
Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc.
Lửa tạnh hề biên cương,
Nền cao hế xả tắc.
Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy sấm, triều Mãn Thanh bóp bụng sống chung trời;
Chí đấu tranh son sắt vững vàng non, niềm Lưỡng Quảng quyết tâm đòi lại đất.
Nhưng than ôi!
Tấm gan rèn đá, trời chửa vá xong;
Đỉnh Ngự chìm mây, rồng sao vội khuất!
Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi dòn thoi phút để mối tơ chùng!
Nghiệp đế vương đuối sức giữ gìn,
Thuyền thuận bến trúc theo cơn gió lật!
Trời Phú Xuân sương gió lạnh lùng!
Bến Thị Nại bèo mây tản móc!
Bút chép sử múa men tay đắc thế: trang oanh liệt son nhoà!
Nền ghi ân khuất lấp bóng cô thôn: gương anh hùng thuỷ nhạt!
Nối chí cả người sau toan lấp hận,
Lao công Tinh Vệ ngậm ngùi thương.
Gìn dấu linh chốn cũ khó nguôi tình,
Lắng giọng đề quyên tê tái ruột.
Cũng may thay!
Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,
Ách chuyên chế giống nòi nay đã thoát.
Trăng hào kiệt bấy lâu u ám, ngọn đông phong mát mẻ vén màn sương;
Vườn anh hoa đua nở tự do, bút thanh nghị ngọt ngào rơi giọt móc.
Chúng tôi nay:
Chung gội ơn xuân,
Kính dâng lễ bạc.
Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ màng,
Nội thắm ngàn xa, hương tinh thành bát ngát.
Dòng lịch sử mở ra ôn lại, dịu dàng chữ gấm dệt lời hoa,
Tranh vĩ nhân trải rộng xem chung, lộng lẫy chỉ vàng treo bóng ác.
Hầm Hô con cá nhảy, trong bóng mây thấp thoáng bóng rồng,
Trưng Lĩnh cánh diều bay, theo tiếng gió lẫy lừng tiếng nhạc.
Linh thiêng xin chứng.