城旗掛旭

城上風雲靜入陲,
平明仙杖蔟春旗。
扶桑氣接蛟龍上,
閶闔天開北斗垂。
濃嶺香煙孚劍佩,
端門柳色拂旌旗。
周家想到時巡日,
指顧仙山畫翠眉。

 

Thành kỳ quải húc

Thành thượng phong vân tĩnh nhập thuỳ,
Bình minh tiên trượng thốc xuân kỳ.
Phù tang khí tiếp giao long thượng,
Xương hạp thiên khai Bắc Đẩu thuỳ.
Nùng lĩnh hương yên phu kiếm bội,
Đoan Môn liễu sắc phất tinh kỳ.
Chu gia tưởng đáo thời tuần nhật,
Chỉ cố tiên sơn hoạ thuý mi.

 

Dịch nghĩa

Trên thành gió mây yên tĩnh như ở chốn biên thuỳ,
Lúc sáng sớm chống cây gậy tiên đi cắm những khóm cờ xuân.
Khí phù tang ở phương đông tiếp xúc với loài giao long,
Cửa trời mở ra cả bầu trời sao Bắc Đẩu rớt xuống.
Hương khói núi Nùng khiến mọi người tin vào thanh kiếm đeo bên mình,
Hàng liễu cửa Đoan Môn làm lay động những lá cờ.
Nhớ đến buổi tuần thú như ở thời nhà Chu,
Chỉ nhìn lên ngọn núi tiên mà vẽ cặp lông mày xanh biếc.


Nguyên dẫn: Thành Thăng Long, trước là thành Đại La, cung khuyết và thành trì do nhà Lý xây dựng. Hoàng triều (triều Lê) có tu bổ thêm, xây năm cửa, trước sân có dựng một kỳ đài, trên đài cắm một lá cờ to làm quân hiệu, mặt trời chiếu vào hồng tâm, ánh sáng lấp lánh thật đẹp.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]