Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh » Truyện thơ » Nhị độ mai
Đăng bởi Vanachi vào 10/03/2007 10:53
Nghĩ đi nghĩ lại tần ngần,
Tay không đất khách, một thân quê người.
Biết cùng ai tỏ khúc nôi,
Dở dang hai lẽ, tới lui khó lòng.
Bước lần bỗng thấy gần sông,
Xuống thuyền nhờ để tìm vùng lánh xa.
Trọn ngày đến bến, lên bờ,
580. Trời hôm vào đấy là chùa Thọ am.
Than rằng: “Tội báo cho cam,
“Thế này trời hãy còn làm đến đâu.
“Họ Lư tầm nã còn lâu,
“Tấm thân đã biết về sau thế nào?”
Trong lưng sẵn giải lụa đào,
Cởi ra, sinh đã buộc vào cành cây.
Thương ôi! Sao khéo đang tay!
Thân này đã quyết với dây ấy rồi.
Trời còn cứu kẻ anh tài,
590. Trong chùa bỗng có một người bước ra.
Lòng lành thấy sự oan gia,
Trở vào bạch lại sư già trước sau.
Sư ra dạy cởi xuống mau,
Khương thang kíp đổ, giờ lâu tỉnh dần.
Thấy người trạng mạo văn nhân,
Quá thương sư mới hỏi gần hỏi xa.
Nỗi mình đâu dám giở ra,
Sinh bèn chống chế, kêu ca liệu lời:
Rằng: “Con chút phận tôi đòi,
600. “Giữ đồ thầy để mất vài bốn bao.
“Trở về nghĩ chẳng tha nào,
“Cực mình nên phải quyết liều quyên sinh.
Sư rằng: “Cửa bụt thênh thênh,
“Tòng quyền hãy tạm gởi mình ở đây.
“Nhà chùa công việc cũng đầy,
“Dẫu rằng lau án, tưới cây cũng là,
“Vả trông ra dáng con nhà,
“Sẵn nghiên bút viết một và tờ xem.
“Dẫu rằng xấu tốt chẳng hiềm,”
610. Sinh bèn đề chữ “Thọ am tự thuyền”.
Sư rằng: “Này bút thiên nhiên,
“Lọ tìm Vũ kiếm, lọ khen Lan đình.”
Phòng văn giao mặc viết kinh,
Vườn hoa lại phó một mình sửa sang.
Sức người như giúp hơi dương,
Một vườn tươi tốt bằng dường thêm xuân.