Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ dân gian » Ca dao » Vè, đồng dao
Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ dân gian » Ca dao » Ca dao về lịch sử
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/08/2020 14:27
Bà con cô bác,
Lẳng lặng mà nghe!
Tôi nói cái vè,
Cái vè sai đạo,
Danh vi trấp bảo,
Vụ dĩ an dân.
Khâm sai đại thần,
Kéo vô Đà Nẵng.
Tướng quân đều sẵn,
Tán lý tán tương;
Chú Bang chú Thương,
Chú Đề chú Lãnh.
Quân hùng tưởng mạnh,
Các đội các cơ.
Gióng trống mở cờ,
Kéo vô tỉnh cũ.
Phân quân vừa đủ,
Phát vãng thượng du.
Thác cá, Rập cu,
Đôi đường tiến tiễu.
Nhất thời phương liệu,
Văn miếu đồn binh.
Ai thấy cũng kinh,
Gọi Khâm sai giỏi.
Kêu dân tới hỏi:
Rằng Nghĩa đã tàn.
Hạnh hoặc tương an,
Thị vi thịnh sự.
Sau lên Phong sử,
Nghĩa dũng tứ vi.
May chẳng hề chi,
Nhờ ba chú Pháp.
Thâu qua Yên Giáp,
Trở lại La Thành.
Từ ấy thất kinh,
Vừa làm vừa sợ.
Tướng chi, tướng dở,
Vị luyện quân tinh.
Chẳng có Tây binh,
E không khỏi chết.
Chước chi cũng hết,
Năm ngoái năm ni,
Làm chẳng ra chi,
Lại thêm ăn bậy.
Lũ quân đi lấy,
Các tướng về chia.
Thôi đã tràn đìa,
Cái chi chẳng xách.
Cái quần đã rách,
Cái áo tả tơ,
Cũng dành cũng quơ,
Huống chi cái khá;
Kẻ thì đào mả,
Thằng lại phá nhà.
Những chó những gà,
Những heo những vịt.
Bắt mà ăn thịt,
Lại bán lấy tiền.
Đem về Thừa Thiên,
Nghĩa, Bình, Quảng Trị,
Thậm vi khả bỉ,
Quân lệnh Khâm sai!
Thiên hạ ai ai,
Chớ tin mà mắc.
Thác từ đánh giặc,
Hại ngã lê dân.
Thiên địa quỷ thần,
Nguyện kỳ chiếu giám.
Nói càng thêm thảm,
Chẳng biết làm sao.
Hiệu lệnh dường nào,
Quân gia đến thế!
Hà mưu hà kế,
Hà lự hà tư?
Viện những đồ hư,
Để đi ăn giựt.
Bợm nào đắc lực,
Tiến chức tiến quan,
Lớn bé một đoàn,
Vô sở bất chí.
Nhân dân nghị, nghị,
Thuỳ lạc chi tùng.
Sự thế nhật cùng,
Quảng Nam ở lỗ,
Trời làm chi khổ,
Thất đảo bát điên.
Nói lắm cũng phiền,
Như tư nhi dĩ.