Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Hán
2 bài trả lời: 2 bản dịch
1 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 22/10/2008 10:47

去者日以疏

去者日以疏,
來者日已親。
出郭門直視,
但見丘與墳。
古墓犁為田,
松柏摧為薪。
白楊多悲風,
蕭蕭愁殺人。
思還故里閭,
欲歸道無因。

 

Khứ giả nhật dĩ sơ

Khứ giả nhật sơ,
Lai giả nhật dĩ thân.
Xuất quách môn trực thị,
Đãn kiến khâu dữ phần.
Cổ mộ lê vi điền,
Tùng bách tồi vi tân.
Bạch dương đa bi phong,
Tiêu tiêu sầu sát nhân.
Tứ hoàn cố lý lư,
Dục quy đạo vô nhân.


Đây là bài thứ 14 trong Cổ thi thập cửu thủ, tả nỗi niềm của người đi xa khi đi qua những mộ phần ở ngoài thành. Ý tứ bài thơ uyển chuyển, dẫn dắt suy nghĩ từ mối ưu sầu này sang mối ưu sầu khác, không đầu không cuối, dằng dặc miên man.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Như Quy

Người đi dần xa cách,
Người tới dần thêm thân.
Ra cửa thành xa ngóng,
Những gò với mộ phần.
Mộ xưa nay hoá ruộng,
Tùng bách thành củi rồi.
Bạch dương nhiều gió nổi,
Vi vu não dạ người.
Tưởng nhớ nơi quê cũ,
Muốn về chẳng cớ thôi.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Người đi ngày mỗi cách
Người đến ngày thêm thân
Ra cửa thành xa ngóng
Gò hoang với mộ phần
Bách tùng thành củi chụm
Mồ mả hoá vườn sân
Gió rít bờ dương trắng
Sầu đời hiu hắt dâng
Cổng làng xưa vẫn nhớ
Không lối trở về thăm

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời