Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Khương Hữu Dụng » Tiếng dân
I.
Đất dựng trời xây một dãy ngang
Thuở nay bao trải cuộc tang thương
Bia xưa còn đó rêu in chữ
Luỹ cũ mòn đâu đá dựng hàng?
Mù mịt nước non mây khói phủ
Vào ra Nam Bắc ngựa xe tràn
Đoái nhìn cảnh gợi ngày xưa đó
Luống giận cho ai khéo mở đường!
II.
Cùng nhau đến viếng cảnh Đèo Ngang
Thấy cảnh tiêu sơ luống đoạn tràng!
Tuyết nhuộm sương pha bia lợt chữ
Mưa dầu nắng dãi đá trơ gan.
Mây bay đầu ải: cờ in bóng
Cây đứng sườn non: lính sắp hàng
Thành quách phân đàn nay khác trước
Buồn trông phong cảnh chốn Hoành San!
III.
Dâu bể bao lần núi vẫn ngang
Trơ trơ đá nọ đứng giăng hàng
Bia xưa còn tỏ gương minh nguyệt
Ải cũ đà nghiêng bóng tịch dương
Mõ điểm: sóng dồn khi biển động
Đèn canh: soi rọi lúc đêm trường
Nhìn trông phong cảnh tiêu điều đó
Ai khách ưu thời khỏi cảm thương?
IV.
Bắc Nam phân giới, giới đâu rồi?
Kẻ lại người qua chẳng thấy thôi!
Xe chạy quanh co đường dọc đất
Mây giăng chồng chập núi ngang trời.
Non sông như có chiều đau đớn
Hoa cỏ chừng ra dáng hổ ngươi!
Thôi nỏ buồn chi dâu bể ấy
Đã hay rày lở, hẳn mai bồi...
V.
Vừa đến Hoành Sơn bóng xế đèo
Tứ bề nhìn lại vắng teo teo
Cổng vôi rời rã, tường nghiêng ngửa
Bia đá lờ mờ chữ mốc meo!
Núi chất thành sầu, đông dễ khóc
Sóng dồn bể khổ, hạ quyên kêu!
Đoái nhìn non nước, lòng riêng hỏi:
Hỏi gấm chờ ai để dệt thêu?
VI.
Tới đây nào biết hỏi ai đây
Nam Bắc phân cương phải chốn này?
Lấp bể không chìm, bờ sẵn cát
Vá trời thiếu đá, núi phun mây.
Một đường xe chạy rồng như lượn
Mấy cánh buồm giương bướm tưởng bay.
Thấy cảnh ngậm ngùi riêng với cảnh
Riêng mình, mình biết với mình hay!