Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Johannes Robert Becher sinh ngày 22/5/1891 tại Munich, là con trai của thẩm phán Heinrich Becher. Năm 1910, sau khi tự tử hai lần với người yêu, chỉ còn mình ông sống sót. Năm 1911, sau khi tốt nghiệp phổ thông, ông cho ra đời bản hùng ca "Der Ringende" và tậpo thơ "Verfall und Vernunft", phê phán trật tự xã hội. Năm 1911-1918, ông học ĐH ngành Triết học, Triết học và Y học tại Munich, Berlin và Jena, nhưng không hề tốt nghiệp. Ông làm việc cho tạp chí "Aktion" và "Die neue Kunst", ông trở thành mộ trong những người đi đầu trường phái biểu hiện. Năm 1914-1918, do nghiện móc-phin, ông bị đưa vào 1 bệnh viện chữa trị.
Năm 1917, ông gia nhập Đảng Xã hội dân chủ độc lập Đức USPD). Năm 1919, sau khi gia nhập Đảng cộng sản Đức (KPD), ông xuất bản tập thơ "An Alle". Năm 1920-1922, ông thất về cuộc cách mạng tháng 10, ông chuyển sang tôn thờ tính ngưỡng. Năm 1923, sau khi đọc sách của Lenin, ông đảm đương công việc trong Đảng cộng sản. Năm 1925, ông cho ra đời tiểu thuyết chống chiến tranh "Levisite oder Der einzig gerechte Krieg". Ông bị kiện, nhưng năm 1928 do cuộc biểu tình trong và ngoài nước nên được tha. Năm 1928, ông là người đồng sáng lập và là thư kí thứ nhất Hiệp hội nhà văn cách mạng vô sản (BPRS) và lập cơ quan của hội này là "Die Linkskurve".
Năm 1931, ông cho xuất bản sách "Der große Plan. Epos des sozialistischen Aufbaus". Năm 1932, ông là biên tập phần văn chương cho báo "Roten Fahne". Năm 1933, sau khi Đức quốc xã giành chính quyền, ông di cư sang Praha, sau đó sang Paris. Năm 1934, ông từ bỏ quốc tịch Đức. Năm 1935, ông sang Moscow, làm biên tập cho tạp chí tù đày "Internationale Literatur - Deutsche Blätter" và là thành viên hội đồng trung tâm của Đảng KPD. Năm 1940, ông cho xuất bản tự truyện "Abschied" được chuyển thể thành phim năm 1968. Năm 1943, ông là người đồng sáng lập Hiệp hội "Nationalkomitee Freies Deutschland" (NKFD). Năm 1945, sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, ông quay trở về Berlin, cùng sáng lập "Kulturbund zur demokratischen Erneuerung Deutschlands" và trở thành Bí thư thứ nhất. Ông nỗ lực để nhiều nhà văn, thơ trở về. Ông còn thành lập nhà xuất bản Aufbau, nguyệt san "Aufbau" và tuần san "Sonntag". Năm 1946, ông cho ra đời tập thơ "Heimkehr", chịu ảnh hưởng của tù đày. Ông nằm trong ban chấp hành Đảng xã hội thống nhất Đức (SED). Năm 1949, ông là người đồng sáng lập tạp chí văn chương "Sinn und Form". Năm 1950, ông nhận giải thưởng quốc gia của Cộng hoà dân chủ Đức cho lời bài quốc ca. Năm 1951, ông nhận được danh hiệu tiến sĩ danh dự của trường ĐH Humboldt trong dịp kỉ niệm sinh nhật lần thứ 60. Năm 1953-1956, ông là chủ tịch Viện hàn lâm nghệ thuật Đức, do chính ông thành lập năm 1950. Năm 1954-1958, ông là bộ trưởng bộ văn hoá đầu tiên, nhưng từ năm 1957 mất dần ảnh hưởng chính trị. Ông nỗ lực để có liên lạc với nhà văn, thơ Tây Đức. Năm 1958, ông cho xuất bản tập thơ cuối cùng "Schritt der Jahrhundertmitte". Ngày 11/10/1958, Johannes R. Becher mất tại Berlin.
Johannes Robert Becher sinh ngày 22/5/1891 tại Munich, là con trai của thẩm phán Heinrich Becher. Năm 1910, sau khi tự tử hai lần với người yêu, chỉ còn mình ông sống sót. Năm 1911, sau khi tốt nghiệp phổ thông, ông cho ra đời bản hùng ca "Der Ringende" và tậpo thơ "Verfall und Vernunft", phê phán trật tự xã hội. Năm 1911-1918, ông học ĐH ngành Triết học, Triết học và Y học tại Munich, Berlin và Jena, nhưng không hề tốt nghiệp. Ông làm việc cho tạp chí "Aktion" và "Die neue Kunst", ông trở thành mộ trong những người đi đầu trường phái biểu hiện. Năm 1914-1918, do nghiện móc-phin, ông bị đưa vào 1 bệnh viện chữa trị.
Năm 1917, ông gia nhập Đảng Xã hội dân chủ độc lập Đức USPD). Năm 1919, sau khi gia nhập Đảng cộng sản Đức (KPD), ông xuất bản tập thơ "An Alle". Năm 1920-1922, ông thất về cuộc…