Vô đề kỳ 1

Hồi thủ hà sơn mộng vị tinh,
Hốt giao kỳ tưởng nhập minh minh.
Sở giang hữu khách huề cô kiếm,
Thục đạo hà niên khiển ngũ đinh.
Vạn lũ xuân tàm tâm bất tử,
Thiên niên cố trủng quỷ vô linh.
Dĩnh trung chỉ giải Ba nhân khúc,
Bạch tuyết ca thành độc tự thinh.


Đầu tháng 8-1908, Huỳnh Thúc Kháng cùng Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, Lê Văn Khôi, Đặng Văn Bá,... tất cả 27 người bị xử đày Côn Lôn, đến Sài Gòn bị giam tại Khám Lớn, chờ khoảng một tuần lễ có tàu chở đi, đến 28-8-1908 tới Côn Lôn. Trong lúc ở Khám Lớn, mọi người có lúc ngồi đọc lại thơ cho đỡ thì giờ. Huỳnh Thúc Kháng đọc hai bài thơ này, được làm từ sau khi Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đã sang Nhật Bản.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Huỳnh Thúc Kháng

Ngảnh lại non sông giấc mộng nồng,
Khiến người tơ tưởng giữa mênh mông.
Sông sâu khách đã mang gươm tếch,
Núi hiểm năm nào mở nẻo thông?
Muôn mối tơ tằm lòng chết chửa,
Ngàn năm mả cổ quỷ thiêng không?
Ba nhân khúc nọ nhiều người hoạ,
Bạch tuyết ca rồi chỉ ngóng trông.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Sơn hà ngoảnh lại giấc mơ nồng,
Tơ tưởng khiến người lạc cõi không.
Sông Sở khách cầm thanh kiếm lẻ,
Năm nào xứ Thục mở đường thông?
Tơ tằm muôn mối lòng chưa chết,
Mả cổ ngàn năm quỷ hiển không?
Khúc nọ ba nhân nhiều kẻ hoạ,
Ca thành Bạch tuyết tự mình trông.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời