Ăn cơm mới, nói chuyện cũ,
Tưởng cơ đồ Chúa Nguyễn thêm thương!
Ngùi ngùi nhớ đức Tiên Vương,
Công phu chỉ ngõ mở đường vào đây.
Phân cương từ chốn luỹ Thầy,
Bắc Nam tương giới nào lay ngọn cờ.
Để phòng chẳng chút vi sơ,
Đã hâm ao nóng lại hơ thành vàng.
Tượng vì trên chúa Đào Đường,
Dưới tôi lại có những trang Cao, Quỳ.
Thang non bè biển đều về,
Có nhân trời đất cũng vì nữa ai.
Dây dưa truyền đã bảy đời,
Kiệm cần còn hãy đội trời Thang, Văn.
Tám truyền mới đến tiên quân,
Đai cân mới đổi, áo quần mới thay.
Một trường lễ nhạc xum vầy,
Tranh treo thế giới gấm xây cung thành.
Đâu đâu hoà chẳng đua tranh,
Cửa quyền tía đỏ, lều tranh ỷ - là.
Ngậm cơm vỗ bụng đều ca,
Nhìn xem Nam Việt ngỡ là Đường Ngu.
Âu vàng vững đặt mấy thu.
Ở ăn nào có lo âu sự nghèo.
Quấy đem trách bấy tôi yêu.
Mở đường mọt nước xui điều sâu dân.
Lợi đo từ tấc nhẫn phân,
Tầm xa dễ vạy, thước gần ít ngay.
Chín trùng nào Chúa có hay,
Lệnh ra thì ít, lạc bay thì nhiều.
Ngàn chung rước những sự nghèo,
Phủ xây oán hận, thềm rào hoạ tai.
Luống toan phú quí làm mồi,
Đàn hoà lũ nịnh, phấn giồi mặt dua.
Ngọt lời để tật cho Vua,
Cảnh ngôn nào thấy một mồ Tỉ Can.
Để cho mạch nước hao tàn,
Đao khuê cạn tễ, chưa toan rước thầy.
Trong khi cỗi nước động lay,
Cung xanh trước quạnh chưa xây nền Chừ.
Mười phần thế nước dường tơ,
Đời không Tứ Hiệu ai hoà gỡ xong.
Hiềm nghi ai khéo sinh lòng,
Ngọt ngon một bánh chúc mừng các con.
Xa lo kìa hỡi Quí Tôn,
Giặc trong thềm vách, dạ còn chớ quên.
Giáp Tân chúa mới tân thiên,
Tranh nhau trận ấy ước nên dầm vàng.
Đỉnh hồ từ quạnh xe loan,
Điệu vong ngùi tả hai chương vãn từ:

I. Ba chín năm dư sáng nghiệp vương,
Ân oai cương đoán tốt dường gương.
Mặt Nam dốc sửa trong phong hoá,
Cõi Bắc thường cầm nỗi bản chương.
Cỗi nước chẳng toan tôn thái tử,
Mối nhà nỡ để rối triều cương.
Đã không Chiêu Liệt còn chi nữa,
Bếp Hán ai nhen lửa đặng hường.

II. Non nước trời Nam đã bảy triều,
Nghiệp vương xây dựng để tôn miêu.
Rỡ ràng chính hoá đời Văn, Võ,
Réo rắt âu ca thủa Thuấn, Nghiêu.
Của đặng Công Lưu sao chẳng muốn,
Sắc như Đản Phủ cũng nên yêu.
Cơ chi quốc thúc còn Cơ Đán,
Chống đỡ chi cho cỗi nước xiêu.


Thơ thôi chạnh tưởng bơ vơ,
Thế này chưa biết cuộc cờ về ai?
Lại cho cướp đặng báu trời,
Thẹn cùng Tử - Ngũ hổ ngươi Di - Tề.
Lại cho ôm đặng ngọc khuê,
Soi gương Nguyên Cát, nhắm bia Kiến Thành.
Nỡ nào cốt nhục phân tranh,
Chẳng hay thiên ý đã dành chân vương.
Một mình ấu chúa đảm đương,
Cựu dinh may lại có trang anh hùng
Mượn tay kìa bấy Trương - Công,
Gót gian ẩn tích, da trung lộ ngần.
Cùng thuyền e lậu tấc phân,
Âm mưu Hữu Ý uống hần chín sông?
Hoà triều đều trụt lưỡi trung,
Nào ai có dám cãi trong ngục trần.
Chua le thay nỗi ân cần!
Béo gầy khéo mượn Việt Tần lòng thương.
Chín truyền bèn đến tân vương,
Ấu thơ nào biết mối giường đảm đương.
Tưởng xưa Thái Giáp thêm thương,
Mấy lầm hầu trách “Phúc Thang điển hình”
Cơ chi có Doãn A - Hành,
Làm chi đến nỗi rối mành nhà Thương.
Trách vì quốc phó họ Trương,
Chánh quân khéo khéo chẳng nhường Y Châu.
Của dân muôn một mình thâu,
Như sành còn hãy rán dầu cho khô.
Muôn chung ăn tưởng chửa no,
Cùng loài hãy muốn lên gò cho cao.
Một đoàn phú quý xôn xao,
Trâm anh còn bú, đài bào còn mem.
Trong triều hoà những con em,
Có ai mà lại nghi hiềm dạ ai.
Đua nhau ăn uổng cơm trời,
Cạn đường thịt chạy nhuận vời thây đi.
Cho hay Thuấn đã qua kỳ,
Tài dầu chẳng sánh Cao Quì cũng dâng.
Của tiền thì đặng trí thân,
Thiếu tiểu tu cần, dầu học chí nên.
Mãn triều chân tử vẻ vang,
Đều những đọc tiền, nào thấy đọc thơ!
Học trò là báu nước nhà,
Non cao hang thẳm tiếc đà bỏ rơi.
Há rằng chẳng có bảng trời,
Thi tiền thì đỗ, thi tài thì bay.
Anh hùng khó chịu chau mày,
Nhà giàu con trẻ lướt mây thè lè.
Có ai bưng bít chẳng nghe,
Đã chăn sao để trâu dê gầy mòn.
Nỡ tàn cỗi nước chẳng vun,
Ngọc vàng con hát. Lấm bùn thằng dân.
Ăn chơi cho sướng cái thân,
Béo mình những tưởng, ốm dân chi sờn.
Lấy ai cứu chúng lầm than?
Nóng nuốn thêm nóng, sâu càng thêm sâu.
Hãy còn hối lộ tham cầu,
Trút hờn dưới thẳm, chồng sầu trên xanh.
Có phen Bạt quỉ hiện hình,
Ba đông rực rỡ trên nhành trổ lam.
Có phen chan chứa nguồn tham,
Lụt dẫy hàn đàm, nước đục dòng Xuân.
Có phen điềm hiện yêu phân,
Trời năm sáu mặt treo ngần giữa không.
Có phen sấm sét bão - bùng,
Lúa có hoàng trùng nội có hổ lang.
Có phen điềm giới sắc hoang,
Tối tăm hồng nhật, rỡ ràng tuệ tinh.
Có phen điềm ứng giáp binh,
Nước sông dường máu đã tanh lại nồng,
Có phen điềm ứng hư không,
Lở non nên vực, cạn sông nên gò.
Có phen dậy trận đánh khua,
Bỗng dưng đất động trái mùa sấm ran.
Có phen cốt nhục tương tàn,
Ban ngày sao mọc, rỡ ràng hơn đêm.
Mống bày mười thắt thửa xem,
Tham vui nào có nghi hiềm sự chi.
Há rằng trời chẳng lòng vì,
Mấy điềm răn trước, hay vì đã nên.
Trách vì phụ tá chẳng hiền,
Lợi tai vui mắt, lại quên sự nghèo
Rõ ràng lỗ miệng khéo thêu,
Áo che việc dữ, bia treo sự lành.
Khiến trên ngăn lấp thánh minh,
Ấu sung nào biết bất bình lẽ chi.
Đua nhau quấy rối triều nghi,
Kiếm đồ ngoạn bảo dị kỳ dâng lên.
Nào hay thuốc độc bề trên,
Mê tâm không tưởng nước nên sự nghèo.
Kể từ Ất dậu lâm triều,
Rồi qua Quí Tỵ chúc nghèo chín năm.
Giặc dân nổi dậy xứ Chiêm,
Tây Sơn Biện Nhạc nghĩ cầm Võ Thang
“Phù minh diệt ám” tiếng vang,
Đã liều búa sắt, gươm vàng quản chi.
Trong non khói lửa đen xì,
Cờ thì treo áo, binh thì rút cây.
Rủ nhau chuột lũ cáo bầy,
Vuốt nanh khách khứa, cánh vai buôn bè.
Nực cười châu chấu chống xe,
Những ngờ chấu ngã, ai dè xe nghiêng.
Lớn oai sao nó chẳng kiêng,
Đầu còn chó gặm, sau liền kình ăn.
Tới đâu ngọc thạch câu phần,
Than rằng Thăng, Điện ấy dân tội gì.
Triều đình xa dễ chẳng nghe,
Đã đành đuổi cáo muôn què nhọc khua.
Há không lương sĩ cù cù,
Bởi vì ngọng miệng xôi chùa tham ăn.
Há không lúa thóc đầy căn,
Ba quân đánh giặc phải ăn cơm nhà.
Há rằng chẳng sắc can qua,
Can qua sắc nữa, ai hoà đánh cho.
Chẳng nài trăm trận đều thua,
Miễn là đắc thắng đầy kho bạc vàng.
Tinh binh đồn thủ Phấn Dương,
Đem binh lão nhược lót đường Tây Sơn.
Ải ngoài sai chúng khó khăn,
Góc nhà đồn thủ về phần cháu con.
Trận bày dưới biển trên non,
Vầy dân tiền của đắp đồn miễn hơn.
Khéo là đành dạ bất nhân,
Một mình muốn sống, muôn dân nỡ hoài.
Ví dầu xuống ngựa lên ngai,
Không dân chưa dễ cùng ai sang giàu.
Tưởng hơn nào thiệt có âu,
Nước nhà đã mất công hầu cùng ai?
Sao không chống sức ra tài,
Lấy gan làm luỹ, lấy vai làm thành.
Để cho giặc nọ vô danh,
Xôn xao ếch giếng khoe mình nỗi chi.
Anh hùng để phải thế thì,
Nào là tài cán chẳng đi dẹp loàn?
Binh cơ khéo vận trong màn,
Chưa lo đánh giặc, đã càn đánh dân.
Mới hay Tần lại công Tần,
Quét hang đã lỡ, cày sân lại chìu.
Đến đâu máu mỡ đều hao,
Của dân sao khéo tơ hào chẳng kiêng.
Ai làm dân Quảng truân chiên,
Dễ hầu gà luộc mấy phiên nữa là.
Tranh nhau mấy trận vào ra,
Xương phơi trắng núi, máu hoà đỏ sông.
Lấy ai làm chước chiến phong,
Trận tiền dễ thấy anh hùng mặt nao?
Tả quân tuy có tài cao,
Than rằng hùm một nài sao cáo bầy!
Hãn sinh Võ Mục đời này,
Có Trương Tần Cối khó bày nên công.
Xa xôi nào thấy chín trùng,
Có hay mưu hãm anh hùng vậy chăng?
Tiếc tài chân tướng ai bằng,
Tạc bia muôn thủa kính dâng một đề.

Thơ rằng:

Vô lỳ lục lục lũ muôn ngàn,
Khen Tả Quân Du có trí ngoan.
Ngoài cõi vững bền thành họ Lý,
Trong quân da lạnh khổ ngươi Hàn.
Điềm trời cõi Bắc còn bia tiếng,
Trải đất non Tây thảy nép gan.
Khá tiếc đương nghèo trong vận nước,
Anh hùng nỡ luỵ ba lan!


Thơ thôi thảm thiết nhiều bề,
Tưởng anh hùng lại càng ghê nỗi lòng.
Ngao cò dùng dắng dư đông,
Bắc Hà chốc đã chén nồng ngư ông.
Tháng năm Giáp Ngọ hưng sư,
Lời thay phủ việt, thơ từ hỏi han.
Trách vì Trương dại chẳng khôn,
Bày kế hoảng hồn đem lễ cảo lao.
Mượn đường chẳng biết làm sao,
Rày dầu diệt Quắc, mai nào còn Ngu.
Chẳng toan yếu đỡ nguy phù,
Cùng thuyền sao nỡ gieo thù hỡi ai?
Những tin muôn dặm thành dài,
Đường trong đã mở đường ngoài lại qua,
Bởi ta lại làm lại ta,
Nước mình mình đánh dễ hoà trách ai?
Uổng lo mấy nén vàng mười,
Bảo sơn đã đến, dễ rời về không!
Hạm xa xá sợ ý xung,
Biết ai đã hẳn gian hùng một Trương.
Bây giờ hết chước không lường,
Nỡ cho nước đến gốc giường mới ngăn.
Noi sương ví chẳng hay răn,
Xa lo thì dễ, hoạ gần nói chi.
Bây giờ thế đã thuỳ nguy,
Dầu Tôn, Ngô nữa chước gì hầu toan.
Há rằng chẳng có tài năng,
Bình thường chẳng đoái, nguy nan mới chiều.
Hiếm chi những hạng đỏ điều,
Anh hùng rày đã luỵ chiều cháo rau.
Bán quan tiền bạc bấy lâu,
Bây giờ một tướng mua hầu dễ ra.
Đường cùng mới biết độ xa,
Đốt thơ, chém xứ ai hoà thua ai.
Nên, hư cho biết ý trời,
Dễ cam tội đánh dễ cười muôn thu.
Bắc Nam bày trận nhà Hồ,
Danh thơm đã quyết một mồ tướng quân.
Trọng đông hầu đã sáu tuần,
Cuộc đời Hán, Sở chưa phân một bàn.
Khéo toan ai dễ vụng toan,
Một người cũng một lá gan anh hùng.
Nào nhường Bái Đáp tranh phong,
Trắng non kiếm kích, đỏ sông tinh kỳ.
Cho hay thời vận bất tề,
Sức trời mà chớ, hiếm chi sức người.
Anh hùng thành bại dễ nài,
Hai mươi tám Tết đã rời chiến tâm.
Mới hay chữ ngộ là lầm,
Trong thành cờ Triệu đã cầm tay Lưu.
Một trường phú quý phong lưu,
Vật ngoài nào tưởng ái ưu nỗi gì.
Dứt lòng lận bận lão kỳ,
Ở Mân dầu rối, qua Kỳ cũng xong.
Chúa tôi mới quyết một lòng,
Tháng giêng mồng bốn thuận dòng mới lui.
Đoái theo cảnh cũ ngùi ngùi,
Nước pha màu biếc, non dời thức xanh.
Bên trời, góc biển lênh đênh,
Ngừng châu hoà mực tả tình một chương:

Thơ rằng:

Xuân hạ ăn chơi chẳng sớm lo,
Đến thu đông lại biết răn cho.
Tấm lòng trời đất thương hay mỏi,
Nước mắt non sông khóc cũng no.
Chim Việt ngựa Hồ ngơ ngáo đó,
Hươu Tần yến Tạ lạc loài mô?
Số là bĩ, thái xưa nay vậy,
Há dễ trong đời thiếu trượng phu?


Thơ thôi khôn lấp nỗi thương,
Giữa đường gánh bỗng đứt quang một mình.
Muôn dân bỏ lại bao đành,
Cơ chi nhắm mớ dứt tình cũng theo.
Gẫm hờn phô chúng tôi yêu,
Khi bình thấy Chúa, khi nghèo thấy ai.
Nặng bầu bạc én vàng thoi,
Nhẹ thuyền trung ái giữa vời lênh đênh.
Nỡ nào bỏ chúa cho đành.
Nước đâu hầu rửa nhơ danh muôn đời.
Áo ai mặc hãy ấm hơi?
Cơm ai no dạ ăn rồi lại quên?
Cầm lòng bội bạc sao nên?
Đặng đàng ngoài, lại bỏ miền đàng trong.
Nào khi chầu chực màn rồng.
Phấn vua giồi bén đặm nồng duyên tôi.
Bây giờ phân rẽ đôi nơi,
Thuyền không để Chúa giữa vời cùng ai?
Nào khi cậy thế nhờ hơi,
Coi mình tiên bối, coi người giống chi.
Bây giờ nghèo lại bỏ đi,
Làm sao cho phải thửa nghì tôi con.
Nào khi nương tựa quyền môn,
Mình vuông hiếp chúng, gỗ tròn lăn dân.
Bây giờ phụ nghĩa quên ân,
Lẽ đâu bỏ gánh quân thân giữa đường?
Nào khi bồng đỡ yêu đương.
Thân mình đặng cậy, họ hàng đặng trông.
Bây giờ hoạn nạn lại vong,
Những toan của lấy, nào mong nghĩa đền.
Nào khi tôi chúa phỉ duyên,
Cả cơm ai sánh, lớn tiền ai đương.
Bây giờ bỏ chúa giữa đường,
Ải Vân nguy hiểm biết đường thế nao.
Khi bình tìm tới lao xao,
Đến khi loạn lạc thì nào thấy ai.
Ví dầu chúa chẳng sang vời,
Đạo tôi há chẳng mang lời bất trung?
Gương chẳng soi lấy Đinh công,
Phản làm tôi Hán, tin dùng những chi.
Mấy người bạc nghĩa vô nghì,
Trước sau rồi cũng làm bia để đời.
Chúa mình, mình chẳng ngay thờ,
Biết lòng chúa khác có ngờ hay tin?
Lẽ thời nợ nước lo đền,
Thấy nghèo liều mạng mới nên anh hùng.
Có đâu đương thủa bão bùng,
Ba đào thuyền Chúa bỏ không ai chèo.
Hổ sinh với đấng bọt bèo,
Phận hèn chưa đặng giúp nghèo tấc công.
Luỵ châu muôn giọt ròng ròng,
Lạy dâng ba lạy đưa lòng một thơ:

Thơ rằng:

Gây loạn vì ai khéo trớ trêu,
Ấu sung xui Chúa phải cơ nghèo.
Lênh đênh sự nghiệp thuyền không lái,
Tan tác vua tôi gió thổi bèo.
Mấy dặm giang sơn sầu ngóng dại,
Hoà nghìn hoa cỏ thảm chầu theo.
Dưới cờ may đặng xoay tay tớ,
Con giặc tôi loàn quắc hẳn bêu.


Thơ thôi chạnh tưởng bơ vơ,
Một mình thân Chúa ấu thơ biết gì,
Ải Vân thăm thẳm ra đi,
Biết ngày nào lại trở về kinh đô?
Nỡ tham chốn khác quê mô.
Xui cho chim Việt ngựa Hồ sao nên.
Giang sơn một gánh xuống thuyền
Cơ đồ để lại giữa miền Phú Xuân.
Kêu sầu mấy tiếng trống quân,
Nào còn nhạc rối đòi lần như xưa.
Cấm cung là chốn vua ta,
Kìa gươm ai dựng nọ cờ ai treo?
Của kho lấy hết bao nhiêu,
Ấy rơm thay bạc, ấy rêu thay tiền,
Than rằng gác phụng đài tiên,
Chớ nào hương xạ bỗng liền tanh hôi.
Bốn bề nhạc ngựa, chuồng voi,
Kìa cung đế tử, nọ chòi chinh phu.
Lạnh lùng tám cảnh năm lầu,
Phòng hương đóng thảm, rèm châu rủ hờn.
Mến lòng, vật hãy cảm ơn,
Hạc ngâm cung oán, ve đờn khúc ai.
Khôn chiều gió tối mưa mai,
Phủ tàng ngói lở lâu đài giá tan.
Trêu người khiến cảnh đeo hờn,
Đào phai má thắm, liễu sờn mày xanh.
Chông gai nẻo khuất đường quanh,
Thấy đồn cùng luỹ, nào thành thủa xưa?
Chạnh lòng tưởng nỗi bơ vơ,
Trăm năm khôn nói, một thơ tả tình.

Thơ rằng:

Chúa cách Vân quan đã bấy lâu,
Thành vàng ai nỡ chất thành sầu.
Lạnh lùng đỉnh Bắc sương ngàn dặm,
Chếch mác lầu Tây nguyệt nửa câu.
Sáu viện đeo sầu hồng úa sắc,
Chín cung để thảm gấm phai màu.
Cửa kho đèn nguyệt đều thâu hết,
Còn chút chòm sao yến bóng chầu.


Thơ thôi buồn tưởng một mình,
Đoạn trường trăng biết, sự tình trời hay.
Ai làm đá nát vàng phai,
Ủ ê nào thấy lâu đài như xưa.
Miếu đường đòi chốn lơ thơ,
Vò hương chếch mác bàn thờ ngả nghiêng.
Tám vì thánh hãy còn thiêng,
Phù trì ai nỡ phụ thiềng cháu con.
Ví dầu Tân chúa chon von,
Vái trời xin hộ Hoàng Tôn sau nầy.
Hai trăm mười bốn năm chầy,
Dựng nên cơ nghiệp để rày ai ăn?
Tấm lòng man mác khôn ngăn,
Dâng lên trước miếu một văn cáo rằng:

Kính mặt đức Tiên Vương,
Non Lam trổ ngọc;
Nước Việt tuôn vàng.
Thân cùng Trịnh trong điều mạch nước;
Tôn họ Lê trên chánh ngôi Vương.
Thệ đều dạ ái ưu, Hồ, Việt tưởng một nhà lạc tiệc;
Tư vì ai hấn khích, Lưu, Hạng nên trăm trận chiến trường.
Hai chốn Bắc, Nam mới cứ.
Sáu năm Thanh Nghệ lại sang.
Thương sinh dân gối tuyết, nằm sương, ngoài mới triệu về chư tướng;
Thủ Bố Chánh ngăn thành, đắp luỹ; trong bèn an trị bốn phương.
Tám đời Thánh dõi truyền đức giáo;
Hai trăm năm sửa trị triều cương.
Nại từ ấu tự lên ngôi, giường Thang rối đã đành vua Giáp.
Thêm lại quyền thần phụ chánh, tộ Nguyễn suy căm giận họ Trương.
Ngoài đã mọt sâu lê thứ;
Trong thêm cá thịt họ hàng.
Ong bèn dậy Tây Sơn, thế đã khiến ba phân chân vạc;
Hùm lại gầm ải Bắc, lò bỗng tàn sáu miếu khói hương.
Thế cheo leo Nguyễn tự nữa tơ, linh biết chăng ôi liệt thánh.
Rày xui khiến Hạ đồ một mối, kẻo còn hổ với Thiếu Khương.
Ngõ một thủa lại vầy cơ hội;
Đặng muôn năm cho sáng miếu đường.
Nay cáo.


Vái thôi nhiều nỗi bâng khuâng,
Trời cao có biết thấu chăng nữa là?
Uổng sinh làm hại nước nhà,
Ngậm hờn quốc phó bút hoà nên thơ:

Tôi giặc ngậm hờn đứa họ Trương,
Làm cho trăm họ khốn ghê đường.
Cậy Lương dòng ngoại lần tiên Chúa,
Giả Hoắc mầu trung lập tự vương.
Bán nước tiền ròng xây cánh tả,
Buôn dân vàng diếng chất phần dương.
Hai triều tể tướng công chi nớ?
Luống đặng xe tù tới Bắc phương.


Thơ thôi nổi giận không ngơ,
Đoái trông sự nghiệp bơ vơ lại buồn.
Cảm xưa tôi dựng nước non,
Nước non hãy còn, tôi ấy đi đâu.
Vời trông Thuận hầu, Chiêu hầu,
Miếu thờ còn đó, điếu sầu một thiên:

Danh sáng đài mây đã mấy đông,
Có nhân dường hãy sống hai ông.
Chiêu hàng quận Nghệ cờ Hàn Tín,
Quyết thắng Thành Nam thẻ Tử Phòng.
Một mối dốc thâu về cõi ngoại,
Hai trăm há nguyện ở đàng trong.
Tớ dầu nối đặng binh quyền ấy,
Rửa hổ xin vì kẻ chín sông.


Thơ thôi đã vái lại nguyền,
Bao giờ như cũ hiệp duyên quân thần.
Than rằng thiên hạ phân vân,
Lấy ai chửng nịch cứu phần dân ta.
Chúa đi Chúa chẳng nài xa,
Bao nhiêu phép tốt nước nhà đem theo.
Thấy chi những chuyện báo yêu,
Thấy sự khó nghèo để lại cho dân.
Ngùi ngùi thấy cảnh Phú Xuân,
Ngụ tình bèn tả năm vần nên thơ.

Thơ rằng:

Cơ nghiệp hai trăm hưởng có thừa,
Tưởng thôi cơ nghiệp luỵ dường mưa.
Non sông cảnh vật coi như cũ,
Thành quách nhân dân đã khác xưa.
Tưởng dấu đồng đà nhìn bát ngát,
Ngâm thơ Thử Tắc chạnh bơ vơ.
Đi về nghiệm hẳn như lời hát,
Xuân lại hoàn xuân thấy bấy giờ.


Thơ thôi lòng hãy ước mơ,
Phủ Hà, huyện Tống bao giờ lại Xuân.
Cơ hàn cực nỗi muôn dân,
Gạo mua bạc nén, cá cân tiền đồng.
Một ngày ví bẵng ba Đông,
Muôn ngàn cũng hết tay không thế nào?
Gạo ăn cũng ví trời cao,
Một tiền một cáp gạo sao cho đầy.
Nghĩ nào ăn đắng nuốt cay,
Năm tiền chưa đặng đơm đầy bát cơm.
Hương hoa hưởng lấy mùi thơm,
Ước ăn no dạ biết làm chi ra?
Bao nhiêu súc tích của nhà,
Ngàn vàng mua sống miễn qua một ngày.
Gần xa trìu trĩu châu mày,
Một năm nào thấy Đông Tây tiếng cười.
Xiết thương Hà Nội lưng vời,
No chi hầu lại khiến dời Hà Đông.
Cheo leo dường trứng non chồng,
Khác người Quảng, Huế một lòng chua cay.
Đã cam hột gạo mua nài,
Nào no xưa, thấy đói rày dễ duôi.
Cách sông hờn thảm mấy thôn,
Khói tiêu trăm bếp bụi hun muôn nồi.
Vực cồn dễ khiến xa bồi,
Bèo tan thân thế, thuyền trôi ân tình.
Kêu tường luống thấy yếu anh,
Cỏ loạn thị thành rêu lấp thôn gia.
Đường đi nào thấy người ta,
Chim là trăm họ, cỏ là muôn dân.
Cơm chan nước mắt mà ăn,
Thân người nào khác ví thân muông mèo.
Lỡ đời tấm mẳn làm yêu,
Khi mua đứng bóng xế chiều đặng đâu.
Lọ là củi quế, gạo châu,
Ấy khoai là bạc, ấy rau là vàng.
Thiết thân đói khát trăm đàng,
Nào ai có biết hổ hang lẽ gì.
Cha con cũng bỏ nhau đi,
Vợ chồng nào tưởng xướng tuỳ là đâu!
Há rằng tình chẳng thương nhau,
Nhất chiêu bất thực có câu vô nghì.
Kẻ nào gắng đặng thì đi,
Vong hương thất thổ quản gì tấm thân.
Kẻ nào già yếu lỡ lần,
Đã đành thác trẻ ngã lăn rãnh ngòi.
Đói lâu nhọc cốt, nặng hài,
Người ăn thịt người trời đất thấu chăng!
Sinh dân ví chẳng đạo hằng,
Lộn đời súc vật, thì rằng cho hay.
Ai làm nên nỗi nước nầy,
Non xương chất thảm, dòng thây trôi hờn.
Có ai hầu lại phong phần?
Đường rêu ấy táng, suối đờn ấy đưa.
Có ai hầu lại phụng thờ?
Hương tàn ấy chớp, đèn lờ ấy trăng.
Có ai hầu lại than rằng?
Mưa hằng tuôn luỵ, gió hằng kêu oan.
Có ai hầu lại quách quan?
Dưới phần bụng cá, trên tan mỏ diều.
Thác thì ra đất đã liều,
Sống gẫm nhiều điều thực khó nói năng.
Thác yên, sống đã thuận chăng?
Vì ai nên nỗi bất bằng hỡi ai?
Cơm ăn nào hổ ta lai,
Bến mê đều đắm lòng người khá thương.
Nào còn thói cũ phong quang,
Ăn lông mặc lá, doi đường Hồng - Mông.
Đắng cay ai biết trong lòng,
Dật dờ thân lại lạnh lùng tấm thân!
Đoái trong thiên hạ mười phần,
Cơ hàn hết chín, giàu ăn mấy người?
Sự ăn còn hãy chưa nguôi,
Than rằng sự mặc ngùi ngùi thêm thương.
Ba đông đã lạnh thấu xương,
Chẳng thà lại trắng mà vàng lại xen.
Hỗn hào nào biết sang hèn,
Đặng lành bố bả, phỉ quyền gấm thêu.
Ai chê kẻ khó người nghèo,
Ghét dơ thì thớ thuyền chèo hạ lưu.
Bơ vơ như thế thêm sầu,
Thấy phô sự khóc, thấy đâu sự cười.
Cô hồn thương hỡi chúng ngươi,
Nỗi hàm oan ấy, mấy đời cho tiêu.
Ngọn hương giải thoát ai khêu,
Dòng mê ai vớt lên đèo từ bi?
Thương tình hầu dễ có chi,
Kính dâng ba chén tạm vì một văn.

Hỡi ôi!
Sống thác đã hay rằng phận, ưng thà ưng cho hết thửa nhân tình;
Cơ hàn cực nỗi thiết tha, trách bấy trách lầm khi loạn lạc.
Nhớ chúng cô hồn xưa:
Trăm thợ trổ tràng;
Ngàn năm xây tạc.
Quảng Nam trời đất rộng, dễ ai dành phong nguyệt sinh nhai;
Thuận Hoá nước non thanh, mặc vui thú giang sơn đồ mạc.
Trời xuân đã thấu lên đài;
Cõi thọ đều mừng đến vực.
Những tưởng nghèo cho yên phận nghèo, khó cho yên phận khó, ngõ nhờ bốn thú làm ăn;
Chẳng may vận khéo xui rối vận, thời khéo xui rối thời, đoái thấy bốn bề nổi giặc.
Cám thương không xiết nỗi thương;
Đến thác chẳng yên phận thác.
Hoặc ở chiến trường mà nằm trong kiếp lược, thảm chưa tàn ngọn lửa Tây Sơn;
Hoặc sa trận thế mà luỵ phải tồi tàn, sầu còn dọi lưỡi gươm Bắc tặc.
Hoặc chịu cơ hàn mà cả trách trời xanh;
Hoặc đã muối dưa mà chẳng qua ngày bạc.
Trôi gành tấp bãi, thây oan khắp bến lênh đênh;
Bỏ quán nằm cầu, xương trắng đầy đường ngan ngát.
Hồn còn chôn bụng cá, lòng sông;
Phách hãy dọi chân diều, mỏ ác.
Cốt hài rơi hãy đó, luống đeo sầu ngọn cỏ, hạt sương;
Thân thích đoái còn ai? hầu phỉ đặng vò hương bát nước.
Phải ta đặng cầm cờ Cấp Ảm, thà chịu tội kiểu chiếu mà phát kho;
Phải ta đặng phò giá Võ Vương, cũng tán của Lộc Đài mà làm phước.
Kẻo chịu gió tối phất phơ;
Kẻo chịu mưa mai lác đác.
Ôi! Một thủa đổi dời;
Nghìn năm chếch mác.
Thang bắt loạn, kham trách họ Trương;
Cờ xướng nghĩa ngậm hờn thằng Nhạc.
Đau lòng không ráo mắt, thấy xương da bỏ chốn rãnh ngòi;
Ngưng trán đổ mồ hôi, không quan quách phải dùng bó vác.
Đất một thỏi, đem vầy phong táng, loã lồ kia kẻo thấy chẳng đành;
Rượu ba tuần, rầy tạm tế nghi, anh linh nữa xin nguyền thoả chước.
Nay cáo.


Tế thôi luỵ ứa chéo khăn,
Tưởng trong hai chữ “vận tuần” mà ngâm,
Loạn nầy hầu dễ mấy năm?
Hay là dõi trị hai trăm có thừa?
Có đâu trải nắng dầm mưa,
Bao nhiêu ách tắc như xưa hãy còn.
Bây giờ hãy biết lẽ khôn,
Đắng cay phải chịu, ngọt ngon dễ nài.
Ra đàng những thấy chông gai,
Đất trời chẳng rộng, trách ai hẹp hòi.
Có đâu oan nghiệp luân hồi,
Thế gian rằng có lẽ trời ở mô?
No thôi quá ngán chi no!
Chớ mơ bị thóc mà mua sáu đồng.
Khó nghèo ở lỗ đã xong,
Giàu sang coi lại chẳng thông ở truồng.
Khôn ngoan cũng giống điên cuồng,
Phong quang nào phải buông tuồng như xưa.
Ai làm thất sở sanh sơ,
Thân ta như ốc ngẩn ngơ lộn hồn.
Giả ơn nhân nghĩa muôn ơn,
Đã khô máu mỡ, chi còn tăm hơi.
Chua cay đắng xót lòng người,
Một ngày không Chúa trăm nơi dậy loàn.
Chiêu binh giả lập Hoàng Tôn,
Quan nghe huyện Mộc, đóng đồn Ba Lâm.
Đánh nhau cướp bóc ầm ầm,
Kẻ tranh Khám Lý, người làm Tham Mưu.
Khéo là rước oán mua cừu,
Chuột bầy đào lỗ dễ hầu chi nên.
Đua bơi hơi sức cho phiền,
Hết chèo Cam Lộ, cùng thuyền Thuỷ Ba.
Chẳng hay tài cán chi ta,
Chọc ong vò vẽ, hỡi đà ích chi.
Nào câu: “Địa lợi thiên thì”,
Lấy lưng chú Tán mưu kỳ ông Tham.
Chẳng chờ thời thế khá làm,
Những riêng trí tuệ, những ham cày bừa.
Một mình hầu dễ mấy thờ,
Bao nhiêu thảo mộc, hầu chờ phong vân.
Chẳng thì tứ thú làm dân,
Gỗ tròn có sức thì lăn mặc lòng.
Sao như cá chậu chim lồng,
Khó đà cay đắng giàu cùng khúc nôi.
Há rằng khó cực mà thôi,
Giàu bao nhiêu dễ đặng ngồi mà ăn.
Bán buôn cho nhọc tấm thân,
Ở kiệm, ăn cần, nào hẳn của ta.
Thí nghèo xưa chẳng rộng ra,
Giữ tiền làm mọi rày đà ích chi.
Sang giàu tích đặng mấy thì,
Giá ngân buổi sớm tà huy ban chiều.
Khen ai bày đặc trớ trêu,
Xúc lòng kẻ cướp, mõ đều đánh răn.
Ở đâu chẳng chúa trị dân,
Con không cha mẹ, cô bần ai thương?
Đau lòng mượn lấy văn chương,
Xúc ngâm một vãn kể thương sự đời.

Thương đời loạn; thương đời loạn.
Chẳng qua thiên ý đành xui;
Hay nỗi nhân mưu thất toán.
Năm Quí Tị tháng chín, tai mới nghe Tây giáp lộng trì;
Sang Giáp Ngọ tháng năm, tờ lại thấy Bắc Hà phản gián.
Ngỡ như năm trước, nói vậy lại qua;
Ai ngờ phen này, tưởng thôi hoá hẳn.
Cửa luỹ Thầy sắt mà mọt; hai mươi mốt tháng chín, bỗng đà binh pháp thẳng xông.
Thành Phú - Xuân vàng mà phai; hai mươi tám tháng chạp, phút thấy điện đài vi soán.
Cám thương sự nghiệp sinh sơ;
Xiết nỗi Chúa tôi ly tán.
Mồng bốn tháng giêng mới chạy, quân bỏ thuyền, đều lấy bạc vàng
Nghìn ngày nợ nước bỏ quên, tôi bỏ Chúa, lánh vòng tên đạn.
Tưởng nhiều người hưởng thủa thái bình;
Đặng mấy kẻ cùng khi hoạn nạn
Ăn cây nào rào cây nấy chẳng thấy ngoan dân nhà Châu;
Đặng buồng nọ bỏ buồng kia, đều những Đinh công nhà Hán.
Ắt khéo là kinh thảo thủa tật phong;
Ắt khéo là thành thần khi bản đảng?
Kia Điền thị đem về Tề địa, thế đã nghiêng hơn bảy mươi thành;
Nọ Doãn Công bền giữ Tấn Dương, thành chẳng lụt còn ba tấm ván?
Huống chi bảy phủ hãy còn;
Trách bấy một người chẳng dạng.
Son nỡ để cho phai thơ;
Thiết nỡ xui cho mục khoán.
Cám cảnh thay!
Ao lệch vạc nghiêng, thành xiêu ngói tán.
Chốn Tiêu Tương tám cảnh, chẳng còn nghe dõi ca phụng, nổi thuyền rồng;
Miền cung cấm chín trùng, luống những thấy phất cờ lau, bày trận nhạn.
Đoái chếch mác ghê đàng;
Tưởng xót xa đòi đoạn!
Nhà tôn miếu tan tành đồ trọng khí, chếch vò hương, nghiêng bát nước đổ bàn thờ;
Chốn phủ tàng thâu góp của danh lam, những xanh vạc, lại đồ đồng thôi rổn rảng.
Ấy xã tắc xiết chi là khưu khư.
Ấy sinh dân xiết chi là đồ thán!
Gẫm lẽ thiệt “hoán chủ giàn, tan con nghé” ai ngờ ta không thửa mẹ cha,
Tủi thân hư “như con cá bỏ giỏ đơm” ai ngờ ta khác chưng thổ sản.
Chỉ huy cờ đã về tay;
Sinh sát đao cầm đằng cán.
Mõ thâu đêm mấy đoàn kẻ cướp, thương hỡi thương, giàu súc tích chẳng đặng ăn.
Gạo năm tiền một chén hẩm hiu, thảm bấy thảm, bạc tiền đồng thời mới bán.
Lấy chi dưỡng sức cầm hơi;
Luống những ngóng đầu chau trán.
Nhà ở cùng cây cỏ ở, chốn thị thành bỗng hoá rừng xanh;
Người ăn như chó mèo ăn, vật tấm mẳn xem bằng vàng gián.
Nếu nói ra thì nước mắt nhỏ sa;
Nếu kể đến thì lòng thương khôn giãn.
Nhà nuôi bữa, kể hồn không kể xác, khổ não thay! cá lượng vảy, thuốc lượng điếu, củi bán cân;
Chợ mua tiền, thấy tốn chẳng thấy ăn; tha thiết bấy! bánh bán lá, khoai bán xâu, cơm đóng oản.
Nghĩ nào uống khát ăn thèm;
Khôn bấy nằm cầu ở quán.
Kẻ già yếu, thác lăn ngòi rãnh, xương trắng quận Hà Đông;
Người thất thơ, đi bỏ quê hương, cỏ xanh miền Nam Giản.
Nỗi ái ưu đã rối dạ rối lòng. Niềm cốt nhục cũng hết ngoan hết ngoãn.
Bên giềng Bắc đói quên liêm sỉ, em vặn cánh tay anh mà ăn cướp cũng đành;
Chốn làng đông đói hết nghĩa nhân, mẹ cắt miếng thịt con mà đặng ăn nào quản.
Cỏ rau trăm họ sắc xanh lè;
Vượn hót muôn dân hình quái đản.
Giữa chợ đói nằm thắt thẻo, người rằng: ông ngày trước mới thấy dù, võng, xiêm, đai;
Bên đường rách chịu xơ vơ, kẻ rằng: bà ngày xưa mới thấy xuyến, hoa, hột, noãn.
Dân đời loạn lạc, từng nghe chép để trường biên;
Sinh thủa hiểm nghèo, so lại hơn trong truyện vãn.
Cơm cháo đắng, lấy cỏ rau làm ngọt, bòn non, non đã trọc tròi;
Mắm muối không, lấy nước mặn làm ngon, múc biển, biển đà quá cạn.
Thủa bình thường đói chịu đã cam;
Ngày tết nhất “no” thêm quá ngán.
Cửa rước chúa Xuân buồn dược dược; nào cây nêu, cây mía, những tiếng pháo tiếng đu;
Bàn thờ ông vải chạnh khuâng khuâng; nào miếng bánh, miếng nem, những cơm lương cơm phạn.
Chúa xa xôi có thấu chăng là;
Dân loạn lạc no nao đặng chán!
Nắng đã trưa, mà mù còn tối, ấy là người phải đao thương mà khô cốt sầu bi;
Trời chẳng động, mà sấm cứ kêu, ấy là kẻ chịu sống cơ hàn mà u hồn ai oán.
Kể sao cùng muôn việc thảm thương;
Trông cho đặng mặt trời bão noãn.

Tớ nay:
Sĩ ở Đông lân,
Ngụ miền Nam bạn.
Than rằng đã lánh gian truân;
Rủi là gặp kỳ phán hoán,
Số là thấy “thiên hạ hoại loạn dĩ cực” lửa hừng thảm thêm sầu;
Chửa gặp thì “thánh nhân cơ hội khả vi” mưa rưới đượm mầu cứu hạn.
Nói khôn cùng muôn việc thửa xưa,
Thường phải tạm vài lời tự thán.
Song le truyện cũ đã tra,
Chép lại sách xưa để án.

Lời rằng:
Đại hàn chi hậu, tất hữu dương xuân;
Đại loạn chi hậu, tất hữu chí trị.
Vậy có đoán rằng:
Khỉ bổng con mà khóc,
Gà vỡ ổ liền bay.
Chó ngoảy đuôi mừng chủ,
Lợn ăn no ngủ ngày.


Bây giờ đã hẳn mọi đường,
Ăn năn nỗi chúa, nhớ thương vô cùng.
Đắng cay, thấy ruột làm xong,
Ngọt ngon kẻ nể chiều lòng thêm chua.
Những người phụ chúa thờ thù,
Làm nên đã mấy qui mô trong đời.
Quân thân ngay thảo với ai?
Đá vàng lỗ miệng chông gai trong lòng.
Vách gian rằng đã cẩn phong,
Mười tay đã chỉ, mười tròng đã xem.
Tối tăm đã biết rằng đêm,
Miễn lòng đuốc đỏ, ghi hiềm nỗi chi.
Đã rằng: quân tử thế thì,
Sao câu: “Phi quỉ tế chi” lại làm.
Khá thương hãm nịch thân tâm,
Thuyền không Thang, Võ, ai cầm vớt lên.
Đánh Nam sao Bắc nỡ quên,
Hay gần thời đoái, xa miền chẳng thương.
Nước hao, con nước lại càng,
Chờ năm nào nữa, mới sang thái bình.
Than rằng biển thế mênh mênh,
Bốn bề sóng gió, đỗ mình nơi nao?
Dễ chiều hạn hán khát khao,
Sợ hằng gặp mống, trông nào thấy mưa.
Lấy ai vớt chúng dân ta?
Sao người tư mục trời chưa sớm trồng.
Hay là trước thử cháu rồng,
Làm cho khổ tiết, mới dùng ấy chăng?
Há rằng thiên ý hay răn?
Hồng Mông với Hạng, còn rằng Bái Công.
Xưa còn sơ cửu tiềm long,
Rày đà ở ruộng, mặc lòng lăng vân.
Cá tôm sau chẳng biết thân,
Thấy rồng ở cạn đặng gần lại khinh.
Giao long vốn giống thần linh,
Trong ao há dễ có tình ở lâu.
Một mai cửu ngũ đương đầu,
Chín trùng mưa móc, ân sâu khắp nhuần.
Sá chi một lũ kiếm ăn,
Cậy mình có sức hiếp dân buông tuồng.
Mệnh trời nào biết tấc phân,
Vin vai đã tưởng trèo lần lên cao.
Xét mình tài mọn sức nao,
Giống linh, báu cả cầm nào đặng vay.
Xem gương Trần Thắng thì hay,
Nghênh ngang nào đặng mấy ngày xưng vương.
Ngàn năm dầu nhẫn chôn xương,
Nỗi nhơ danh ấy như gương để đời.
No say mãn tiệc thì thôi,
Ngựa xe giong ruổi chưa nguôi buông tuồng.
Mấy thu sao khéo uổng công,
Đặng chữ gian hùng chém Quắc mà thôi.
Phải chi lòng hẳn như lời,
Trước sau đều hộ con trời mấy nên.
Huống thêm hương lửa bén duyên,
Ngày sau đã hẳn con tiên cháu rồng.
Một mai rối nước gỡ xong,
Trên trời công nghiệp cao trồng ai phen.
Muôn năm để lại tiếng khen,
Bia vàng tạc đá, phỉ nguyền hay chăng?
Tiếc thay chẳng thuận đạo hằng,
Nghĩa nhân lỗ miệng đãi đằng rằng khôn.
Ngọn cờ chiêu chúng hương thôn,
Báo danh làm chữ Hoàng Tôn bia bày.
Cho nên ứng thuận lòng người,
Ai đâu dám cãi mệnh trời vậy vay.
Đã vâng hồng nhật trên tay,
Hãy còn ở thói nước mây lăng loàn.
Bây giờ đã hẳn mặt chăng?
Phấn tô trung nghĩa, mực nhằng tà gian.
Làm cho thiên hạ lầm than,
Tội danh biết để mấy ngàn muôn thu?
Bây giờ coi thế đã cô,
Quân thần ban tối, cừu thù bữa mai.
Làm vua ví chẳng mệnh trời,
Nếu tranh mà đặng nhiều người cũng mơ.
Xưa kia cờ đã về ta,
Trong tay chẳng phất để ra tay người.
Có thân thì đoái sau nầy,
Chẳng ngay cùng Chúa ai ngay cùng mình.
Cáo kia chớ cậy có thành,
Trần Hoà dễ chống dân tình đặng đâu.
An nguy còn tưởng khoe mầu,
Thành cao oan nghiệp, ao sâu tội tình.
Sao chẳng học phép dụng binh?
Lấy trung làm giáp, mài thành làm gươm.
Nghĩa nhân trận ấy thường đàm,
Giữ bền, đánh đặng, ai làm chi hơn.
Cớ sao rước oán, gây hờn,
Một mình khiến chống cho hơn cả trời.
Mượn hồn ốc hổ cho ngươi,
Vì dân bảy phủ gửi lời một thơ:

Sinh loạn vì ai trước mượn tay,
Kinh doanh gã Nhạc có tài hay.
Thả mồi tặc tử câu binh Bắc,
Mượn lưới Hoàng Tôn bủa cõi Tây.
Nếm mật ba dinh thù hãy đắng,
Ăn gừng hai xứ oán còn cay.
Bạo tàn sao chẳng soi gương Hạng,
Nước đỏ Ô giang khó vớt thây.


Thơ thôi thảm thiết tuồng thơ,
Trèo cây đương gió, ngọn cờ đương lay.
Sao cho hùm nọ có vây.
Đất hỡi đâu dày, trời hỡi đâu cao?
Cao dày dễ có riêng sao,
Phúc nào khỏi thiện, hoạ nào khỏi dâm?
Gẫm xem thiên mệnh nhân tâm,
Chuyển hoàn sự ấy, há lầm ngưu ngư.
Làm chi nên nỗi ngất ngơ.
Vì dân thì phải khu trừ loài gian.
Tấm lòng hương lửa chưa tàn,
Lạy trời chớ phụ, xin ban mười nguyền.
Một nguyền các đạo tương liên,
Ba ngàn đồng đức hiệp miền Mạnh tân.
Hai nguyền ứng thiên, thuận nhân,
Ngôi chánh bắc thần trước lập Hoàng Tôn.
Ba nguyền sĩ tuyển tài khôn,
Can nghe, kế dụng, chớ mòn tấc phân.
Bốn nguyền cờ dựng nghĩa nhân,
Đến đâu chớ phạm của dân thu hào.
Năm nguyền nghịch đảng rủ nhau,
Bạo tàn thì chết theo sau thì đừng.
Sáu nguyền an nghỉ Điện, Thăng,
Chiêu về trăm họ, nghiệp hằng đặng lo.
Bảy nguyền khử chúng tham ô,
Chớ còn nổi giặc để thù muôn dân.
Tám nguyền rộng bủa lưới nhân,
Khắp thâu hào kiệt trong trần chớ rơi.
Chín nguyền quan ải trùng khai,
Mở đường thương lữ trong ngoài chầu vua,
Mười nguyền đem lại đế đô,
Xe thơ một mối cơ đồ muôn năm.
Nguyền rồi lại vái lâm dâm.
Xin cho như nguyện chớ lầm mới thiêng.
Kẻo còn đeo nỗi buồn riêng.
Rau ăn chưa báo, nắng hiên chưa đền.
Ngõ nhờ thiên vận sớm nên.
Phấn dồi đời trị, phỉ nguyền bình sinh.
Trên mừng đặng Chúa thánh minh.
Chầu về bốn biển, tăm kình bặt không.
Thái bình mở tiệc ca hồng.
Thịt no đức hoá, rượu nồng giáo văn.
Nơi nơi đủ mặc no ăn
Khúc ca ba áo đôi quần xênh xang.
Bõ khi loạn lạc cơ hàn.
Đói nằm thắt thỉu dọc đàng bơ vơ.
Tấm lòng chẳng hổ ngây thơ
Tưởng dung chắp vá mấy lời giải khuây.
Thiết tình nào lựa câu hay,
Ai xem biết đặng lòng này chớ chê.
Trước sau mọi nỗi chép ghi,
Coi chơi há dám tạc bia để đời.


Hoài Nam khúc, còn gọi là Hoài Nam ký, hay Hoài Nam ca khúc, là một tác phẩm mang tư tưởng chống Tây Sơn và ủng hộ chúa Nguyễn. Ngọc Huyên công chúa, con Nguyễn Phúc Chu, từng chép nguyên khúc hát này gửi vào Gia Định để Nguyễn Phúc Ánh phổ biến trong quân thứ nhằm mục đích đề cao chính nghĩa của mình. Bài gồm 670 câu lục bát chưa kể các bài thơ và bài cáo xen lẫn.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]