Đăng bởi Xiao Qiao vào 09/03/2009 19:14
Người ta thường bảo “Nôm na là cha mách qué”, thế nhưng với thơ Hồ Xuân Hương thì đó lại là một ngoại lệ, bởi vì người đọc nhớ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái sự “mách qué” ấy. Nếu không có cái chất “nôm na”, “mách qué”, “xỏ xiên” đầy tinh quái này thì có lẽ đã không có một Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng và tôn vinh Bà thành Bà chúa thơ Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất nôm na trong thơ của Bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. Người ta ngây ngất, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ “nhà quê, mách qué” như: đỏ lòm lom, già tom, mân mó, tấp tênh, lún phún, le te, chín mõm mòm,... Tất cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ. Ngoài những đặc trưng ấy, người ta còn bắt gặp ở Bà một biệt tài nữa trong việc vận dụng tiếng nói dân gian trong thơ. Đó là việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, làm cho câu thơ trở nên giàu tính hình tượng, dễ nhớ, và độc đáo hơn.
Qua sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập Thơ Hồ Xuân Hương do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu được Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1987, chúng tôi đã phát hiện được 15 trường hợp có xuất hiện các yếu tố của thành ngữ, tục ngữ trong những câu thơ. Đây quả là một con số không nhỏ, nó cho thấy thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng như thế nào. Quả là hiếm có một nhà thơ nào lại quan tâm đặc biệt đến vai trò của ngôn ngữ dân gian như Hồ Xuân Hương.
Việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào tác phẩm đã được nhà thơ xử lí rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn. Có những tác phẩm tuy rất ngắn nhưng chúng ta đã không khỏi ngạc nhiên khi thấy tác giả đã hai lần sử dụng đến yếu tố thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn như: Bài Mời trầu có hai câu thành ngữ xanh như lá và bạc như vôi được áp dụng trong câu thơ “Đừng xanh như lá, bạc như vôi”. Bài Khóc Tổng Cóc lại có hai câu thành ngữ khác là nòng nọc đứt đuôi và gọt gáy bôi vôi được áp dụng trong hai câu thơ “Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi”. Hoặc như ở bài Quan thị thì hai câu thơ “Đố ai biết đó vông hay trốc, Còn kẻ nào hay cuống với đầu” lại chính là hai hình ảnh hết sức ví von được rút ra từ hai câu tục ngữ ngồi lá vông, chổng mông lá trốc và đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên.
Thậm chí có bài như bài Làm lẽ, chỉ với tám câu thơ ngắn nhưng lại có tới ba câu thành ngữ đã góp phần vào trong ấy, đó là “Năm thì mười hoạ chăng hay chớ” lấy từ ý của câu thành ngữ năm thì mười hoạ; “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm” lấy từ ý của câu thành ngữ cố đấm ăn xôi; và câu “Cầm bằng làm mướn, mướn không công” lấy từ ý của thành ngữ làm mướn không công. Ngoài ra, còn có những bài khác cũng được vận dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: “Tài tử văn nhân ai đó tá?” (Tự tình I) lấy ý của thành ngữ tài tử giai nhân. “ấy ai thăm ván cam lòng vậy” (Tự tình III) lấy ý thành ngữ thăm ván bán thuyền. “Bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước) ý của thành ngữ ba chìm bảy nổi (bảy nổi ba chìm). “Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” (Đèo Ba Dội) ý của thành ngữ mỏi gối chồn chân. “Bán lợi mua danh nào những kẻ” (Chơi chợ chùa Thầy) ý của thành ngữ bán lợi mua danh (mua danh bán lợi). Và “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi” (Con ốc nhồi) từ ý của thành ngữ lăn lóc như cóc bôi vôi.
Qua một số dẫn chứng trên, chúng ta có thể thấy rằng Hồ Xuân Hương khi đưa thành ngữ, tục ngữ vào thơ thường chủ yếu thông qua hai phương thức chính như sau: Phương thức thứ nhất là vận dụng trực tiếp thành ngữ, tục ngữ vào thơ, tức là lấy nguyên văn, nguyên dạng những câu thành ngữ, tục ngữ vốn có của dân gian để đưa vào thơ như trường hợp: xanh như lá, bạc như vôi (Đừng xanh như lá, bạc như vôi - Mời trầu); nòng nọc đứt đuôi (Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé - Khóc Tổng Cóc); năm thì mười hoạ, (Năm thì mười hoạ chăng hay chớ - Làm lẽ); cố đấm ăn xôi (Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm - Làm lẽ); bảy nổi ba chìm (Bảy nổi ba chìm với nước non - Bánh trôi nước); mỏi gối chồn chân (Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo - Đèo Ba Dội); bán lợi mua danh (Bán lợi mua danh nào những kẻ - Chơi chợ chùa Thầy). Cách xử lí này phải nói là tương đối khó bởi vì nó đòi hỏi tác giả phải có một khả năng cảm nhận hết sức tinh tế về nghĩa của những câu thành ngữ, tục ngữ mà họ định sử dụng để xem nó có phù hợp với ý thơ mà mình định trình bày ở trong câu và trong bài hay không. Đồng thời, tác giả cũng phải là người hết sức giỏi về khả năng xử lí ngôn từ để có thể “ghép” những câu thành ngữ, tục ngữ, vốn là một “khối từ ngữ đúc sẵn”, vào với những từ ngữ chủ quan riêng của mình để tạo nên một câu thơ hoàn chỉnh mà không bị cứng nhắc, gượng ép về nghĩa cũng như về vần điệu.
Những khó khăn nói trên đã được Hồ Xuân Hương xử lí thành công một cách tuyệt vời. Chúng ta thử lấy một ví dụ nhỏ trong số các ví dụ trên thì sẽ thấy rõ hơn biệt tài của Bà trong vấn đề này. Ví dụ trong bài Làm lẽ, để miêu tả thân phận hẩm hiu, thua thiệt của người vợ lẽ trong cuộc sống vợ chồng, tác giả đã sử dụng hai câu thành ngữ năm thì mười hoạ và cố đấm ăn xôi trong hai câu thơ “Năm thì mười hoạ chăng hay chớ” và “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”. Đối với tiềm thức văn hoá của người Việt thì hai câu thành ngữ này vốn rất quen thuộc vì nó thường được sử dụng để nói tới sự trái khoáy, trớ trêu của một điều gì đó. Vì vậy trong trường hợp này phải nói rằng Xuân Hương đã sử dụng nó rất hợp cảnh hợp tình.
Phương thức thứ hai là chỉ lấy ý của thành ngữ, tục ngữ để chuyển vào trong thơ chứ không áp dụng hoàn toàn như ở cách thứ nhất. Chẳng hạn như: thăm ván bán thuyền (ấy ai thăm ván cam lòng vậy - Tự tình III); gọt gáy bôi vôi (Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi - Khóc Tổng Cóc); làm mướn không công (Cầm bằng làm mướn, mướn không công - Làm lẽ); ngồi lá vông, chổng mông lá trốc (Đố ai biết đó vông hay trốc - Quan thị); đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên (Còn kẻ nào hay cuống với đầu - Quan thị); lăn lóc như cóc bôi vôi (Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi - Con ốc nhồi). Cách xử lí này thường tạo nên tính ẩn ý kín đáo cho câu thơ và đôi lúc khiến cho câu thơ như có hơi hướng của những câu đố, ví dụ như trường hợp của “Đố ai biết đó vông hay trốc” (Quan thị) hay như “Còn kẻ nào hay cuống với đầu” (Quan thị). Những câu thơ được sáng tác theo kiểu này thường tạo cho người đọc có những sự liên tưởng rộng hơn, thích thú hơn và đầy ấn tượng hơn bởi vì dấu ấn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tồn tại phảng phất trong câu thơ chứ không hiện hữu rõ ràng như ở cách thứ nhất. Do đó, muốn phát hiện ra trong câu thơ ấy tác giả có sử dụng các môtip của thành ngữ, tục ngữ để diễn đạt nội dung hay không thì người đọc phải có một vốn thành ngữ, tục ngữ nhất định để làm cơ sở quy chiếu so sánh thì mới nhận ra được.
Qua một số ví dụ trên, chúng ta thấy rằng ngôn ngữ dân gian nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riêng có một vai trò, giá trị rất lớn không chỉ trong đời sống ngôn ngữ nói hằng ngày mà còn cả trong ngôn ngữ viết, đặc biệt là thơ. Những câu thành ngữ, tục ngữ khi đi qua ngòi bút tài hoa của Hồ Xuân Hương dường như trở thành một thứ công cụ hết sức đắc dụng trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà không cần phải nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Như chúng ta đã biết, thành ngữ, tục ngữ vốn là những đơn vị ngôn ngữ hết sức đặc biệt. Nó là một loại tổ hợp từ cố định quen dùng nên rất dễ nhớ dễ thuộc, và đặc biệt hơn là nghĩa của chúng thường có tính văn hoá, giáo dục cộng đồng, cũng như tính khái quát rất cao. Cho nên, khi xuất hiện trong thơ chúng thường đem lại tính gần gũi, bình dị và mộc mạc cho câu thơ. Đồng thời, cũng tạo nên những chiều sâu về nghĩa thông qua sự liên tưởng, suy luận của người đọc. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận giá trị của nền ngôn ngữ văn chương, hay ngôn ngữ phổ thông mà hiện nay chúng ta đang phải học, phải tiếp xúc hằng ngày. Điều quan trọng hơn là qua đó giúp cho chúng ta thấy được những vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân gian. Và đặc biệt là thấy được cái biệt tài của Bà chúa thơ Nôm trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ giỏi như thế nào. Nói tóm lại, bất kể là ngôn ngữ dân gian hay ngôn ngữ văn chương cũng đều cần phải được tiếp thu có chọn lọc và phát huy đúng sở trường thì mới có thể làm giàu thêm cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Điều đó có nghĩa là mọi cái chỉ tạo nên được giá trị thực sự khi và chỉ khi nó được đặt vào đúng vị trí của nó mà thôi.
Đăng bởi Nguyễn Thu Loan vào 05/07/2014 17:55
Theo những gì bạn hiểu, có thể thấy bạn chưa sâu sắc lắm về thơ ca nước nhà thời trung đại. Ý kiến của bạn:
Cái ngày còn mài đũng quần trong các lớp đệ ngũ, đệ tứ, tôi được học bài Qua Ðèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan, sự thật không có gì xuất sắc lắm nhưng muốn có điểm cao cứ phải khen lấy khen để, thực ra bà Huyện thấy gì tả nấy, như thấy con cóc trong hang nhẩy ra, ngồi đó, nhẩy đi, rồi lại ngồi đó, thì làm sao có thể so sánh với bài Ðèo Ba Dội của Bà Phủ Vĩnh Tường, rất ví von, nhẹ nhàng, thanh thoát, hóm hỉnh, tượng hình, tượng thanh. Chúng ta thử theo gót Bà Huyện Thanh Quan đến Ðèo Ngang vào một buổi chiều, mặt trời xế bóng, nhìn phong cảnh bao la, hùng vĩ của sông núi, những tia nắng vàng yếu ớt xuyên qua từng kẽ lá phản chiếu trên mặt nước long lanh của một con suối róc rách chẩy, tạo thành một bức tranh sơn thuỷ tuyệt vời, âm thanh dịu dàng, tâm hồn người thơ như chìm đắm trong cái đẹp mơ màng của buổi hoàng hôn. Vậy mà Bà Huyện chỉ viết được:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tàNhìn xuống dưới thung lũng thấy cỏ cây hoa lá chen chúc mọc, bà đề:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoaXa hơn nữa vài chú tiều ốm-o gầy còm đang lom khom làm rẫy:
Lom khom dưới núi tiều vài chúChung quanh vài căn nhà lác đác trên bờ sông:
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.Thú thật tôi chẳng có một tí.. feeling nào hết!! Làm thơ như vậy ai làm mà chả được!! Ta hãy để tâm hồn lắng đọng lại, tưởng tượng mình đang đi về miền quê ngoạn cảnh, qua miền đồi núi hương thơm ngào ngạt, xa xa con đường đất nhỏ uốn khúc chạy xuyên qua hết đèo này tới đèo khác lên cao bất tận, bà Phủ Vĩnh Tường đã phải dùng ba lần chữ “một đèo” để tả cảnh non nước hữu tình trùng trùng điệp diệp này của Ðèo Ba Dội:
Một đèo, một đèo, lại một đèo........Đây không phải một bài thơ miêu tả cảnh thiên nhiên bạn nhé, nếu vậy, điều đó thật hời hợt và nhà văn cũng chẳng có điều gì đáng quan tâm. Một bài thơ ra đời, khi nghiên cứu phân tích, ta không nên chỉ dựa vào ngôn từ mà đánh giá toàn vẹn tác phẩm. Nước ta có rất nhiều nhà nghiên cứu văn học tâm huyết và tài năng, không phải đơn giản họ hùa nhau tung hô một tác phẩm để tác phẩm đó nổi bật đâu, hoàn toàn ko phải như thế. Cái chuẩn cao nhất khi đánh giá, chính là khám phá cái hình thức bên trong mà tác phẩm biểu hiện. Một tác phẩm sống được qua hàng niên kỉ chứng tỏ tác phẩm ấy có giá trị tác phẩm Qua Đèo Ngang, ko mang ý nghĩa hời hợt như bạn nói, 1 phần thôi nhé. Ý tứ bài thơ chứa đầy nỗi lòng của tác giả khi ra làm quan nhà Mạc, đánh dấu cho sự sụp đổ của nhà Lê, Đèo Ngang ấy là ranh giới của sự tình biến chuyển, bà bước qua đèo chính là lúc bà công nhận triều Lê đã mất, từ đó hoài niệm về những gì thuộc về quá khứ. Chỉ khi nhập tâm vào tác phẩm, ta mới hiểu hết được nỗi chua xót, nghe được tiếng thở dài của người thi sĩ khi chấp nhận bước qua ranh giới ấy:
Khen ai khéo tạo cảnh cheo leo
Nhớ nước đau lòng con quốc quốcToàn bộ ý tứ bài thơ còn nhiều nữa nhưng chỉ ra đôi chút thôi, mong bạn gì đó đánh giá tác phẩm của các thi sĩ sâu sắc hơn, thơ Hồ Xuân Hương cũng vậy, phải nghiên cứu kĩ mới cảm hết được, đánh giá trên ngôn từ thì giống với đánh giá của mấy nhà nghiên cứu trong quá khứ mất rồi, lấy một từ để quy chụp tác phẩm hoàn toàn thiếu cơ sở. Thân chào và chúc sức khoẻ!!!
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta!!!
Đăng bởi tôn tiền tử vào 04/01/2015 22:10
I. Ba năm vẹn mối tình Nguyễn Du & Hồ Xuân Hương
I.1.
Mùa hè 2011, sau một chuyến du hành khắp nước, tôi dành 5 ngày về ở tại Làng Nghi Tàm trên đường Xuân Diệu. Suốt năm ngày dù trời mưa gió, hay nắng tốt tôi cũng đi khắp làng Nghi Tàm, khắp các đình, chùa, vườn hoa kiểng quanh Hồ Tây, tôi hỏi thăm, trò chuyện cùng các cụ già, thăm dấu vết từng di tích ghi dấu trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ và nhất là 31 bài thơ của Tốn Phong Nham Giác Phu, viết ca tụng nữ thi sĩ: Tao đàn xuất hiện vị thơ thần và cũng là người đẹp Phi Mai xuân sắc nhất kinh thành, mà hai trăm năm qua cả nước tốn không biết bao nhiêu là bút mực tìm kiếm về nàng.
Hồ Xuân Hương, tên thật là Hồ Phi Mai, con cụ Hồ Phi Diễn, chánh quán tại Quỳnh Lưu, Hà Tĩnh, và bà mẹ họ Hà quê Hải Dương, nhưng sinh ra và lớn lên tại làng Nghi Tàm, nơi nổi tiếng nghề dệt lụa, làm giấy, dệt lĩnh đen. Tây Hồ có cảnh đẹp “Tây Hồ Bát Cảnh”. Một thi xã đời Vĩnh Hựu (1735-1739) nhà Lê đã ca tụng tám cảnh đẹp quanh Tây Hồ:
- Bến trúc Nghi Tàm: bến tắm chúa Trịnh Giang dưới dãy trúc ngà làng Nghi Tàm.
- Rừng bàng Yên Thái: khu rừng bàng trên núi đất làng Bưởi do chúa Trịnh Giang bắt trồng.
- Đàn thề Đồng Cổ: Đàn do vua Lý Thái Tông (1028-1054) xây để hàng năm quần thần đến đây, để hàng năm quần thần đến thề để tỏ lòng trung hiếu.
- Phật say làng Thuỵ. Chùa làng Thuỵ Chương có pho tượng Phật chống gậy, người thợ điêu khắc sai trông giống như dáng người say rượu, lại hoá ra một kiệt tác, ai xem cũng thích thú.
- Sâm cầm rợp bóng: Nghề săn chim sâm cầm ở các làng quanh Hồ Tây.
- Đồng hoa Nghi Tàm: Làng Nghi Tàm làm nghề trồng hoa có những vườn hoa rất đẹp.
- Chợ đêm Khán Xuân: Chúa Trịnh thường họp hội chợ đêm cùng các cung nữ, thái giám tại đền Khán Xuân để mua vui. Phạm Đình Hổ trong Tang Thương ngẫu lục bài chuyện cũ trong vương phủ có tả cảnh hội chợ: nội thị, cung nữ bắt chước việc mua bán ngoài đời làm trò vui.Chợ đêm vào dịp Trung Thu, hàng ngàn chiếc đèn lồng do các cung nữ chế tạo bằng gấm trong cung, treo khắp nơi. Các quan nội thị chít khăn như đàn bà ngồi bán đủ các thứ hàng, các cung nữ đi lại vừa mua vừa tranh cướp, bắt chước những tiếng thường dùng nơi chợ búa. Nửa đêm Chúa Trịnh ngự xuống thuyền rồng, thuyền bơi qua bơi lại đàn sáo, người hát xướng hoà ca cho đến khi gà gáy.
- Tiếng đàn hành cung: Tiếng đàn các cung nữ nơi hành cung chúa Trịnh nay là chùa Trấn Quốc.
I.2.
Cổ Nguyệt đường nơi đâu? Tôi đi nhiều lần trên con đường nhỏ không tên từ chùa Kim Liên đến đình Nghi Tàm và đọc lại thơ các danh sĩ, Nhà nàng là một khu đất rộng trên đường này, nằm bên Bến trúc Nghi Tàm. Tốn Phong gọi nhà nàng là đình, hay viện Thơ Tốn Phong: Ai đến đình mai hỏi chủ nhân, bài 3, Chủ nhân trước viện trắng mai hoa, bài 5, Riêng tựa đình mai một ánh trăng, bài 7, Đình nguyệt tròn xoe sáng ánh rằm, bài 23.
Cổ Nguyệt đường là một ngôi nhà lớn, năm cụ Hồ Phi Diễn thọ 80 tuổi, năm 1783, học trò cụ lớn, bé, kẻ làm quan đỗ đạt đã chung góp tiền lại xây nhà cho thầy, năm ấy vì bận rộn xây cất, Xuân Hương Hồ Phi Mai được gửi về Quỳnh Lưu quê cha một thời gian. Đó là tục lệ mừng thượng thọ 80 cho thầy ngày xưa, cụ sống đến 83 tuổi, và bà mẹ Xuân Hương họ Hà sống đến năm 1814. Năm 1813 Tốn Phong còn gặp.Năm 1814 Trần Phúc Hiển cưới Xuân Hương, nhưng vì cư tang mẹ một năm, nên năm sau mới về Vịnh Hạ Long. Đình làng Nghi Tàm xưa là một khu đất rất rộng, xưa có Đài Khán Xuân của Chúa Trịnh, nay chỉ còn một cái đình nhỏ khu đất hẹp lại. Cạnh đài Khán Xuân còn có ngôi gác tía của Nguyễn Khản, anh Nguyễn Du, ông thường ra đây đi câu cùng Chúa Trịnh. Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Du về với anh Nguyễn Nễ ở Bích Câu, dinh thự cha anh ở Bích Câu bị kiêu binh phá huỷ, Nguyễn Nể khi ra làm quan Tây Sơn có lẽ đã cho xây dựng lại một ngôi nhà trên đất này, nhưng Nguyễn Du thì thường ở nơi ngôi gác tía cạnh đền Khán Xuân.
Cổ Nguyệt đường cạnh chùa Kim Liên, cho nên Phạm Đình Hổ đã viết: “Từ thuở làm thân khách Cố kinh. Kim Liên qua lại đã bao lần”, anh chàng này từng là học trò cụ Đồ Diễn, nên biết Xuân Hương từ thuở còn thiếu nữ. Trong Vũ Trung tuỳ bút tr 42, cho biết năm 1798-1799 có dạy học tại thôn Khánh Văn, hạ lưu sông Tô Lịch không xa nhà Xuân Hương. Trong Tang thương ngẫu lục, q 2 tr 231 có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên. “Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Nguyễn Kính Phủ, Hoàng Hy Đỗ đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì của Hoà Thượng Huệ (nội thị của chúa Uy Vương)” Phạm Đình Hổ đến thăm Xuân Hương cùng các bạn nhân đó ra về thăm chùa Kim Liên. Qua Vũ Trung Tuỳ bút ta biết Phạm Đình Hổ nhà ở phố Hàng Buồm và Nguyễn Kính phủ (Nguyễn Án) ở cạnh đền Lý Quốc Sư bên Hồ Gươm (nay là phố Nhà Thờ).
Quang cảnh chung quanh Cổ Nguyệt đường thế nào?: Theo thơ Tốn Phong, người viết tựa cho Lưu hương ký:
Phía trước nhà có trồng một cây bàng lớn: “Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình”, bài 6.
Chung quanh nhà có trồng nhiều cây mai (mơ): “Chủ nhân trước viện trắng mai hoa”, bài 5, “Bên quán người hoa chỉ thích mai” bài 9, “Tiết hàn mai tự nở ngàn hoa”, bài 26.
Nhà nàng cạnh bến trúc làng Nghi Tàm: “Vàng bay lá trúc ngõ chuyền oanh”, bài 6, “Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh”, bài 14, “Khóm trúc đình mai ta với ta”, bài 21, “Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân”, bài 25.
Trên bến có trồng vài cây liễu: “Bến nước đìu hiu liễu rủ cành”, bài 6.
Trong vườn có trồng cây vông và cây mận: “Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng, Ngõ hạnh lạnh tàn chuyển bóng oanh”, bài 17.
Nhà Xuân Hương có trồng nhiều hoa, hoa đào, để bán như các nhà khác trong làng Nghi Tàm: “Nàng đây đối mặt giữa hoa ngàn”, bài 7. “Gió mát từng cơn quét ngấn hồng (hoa đào)”, bài 8. “Muôn tía ngàn hồng xuân sắc tới”, bài 9. “Hoa trời khai nở rộ đình xuân”, bài 25.
Hồ Xuân Hương có nuôi một con chim phượng hoàng đất do người bà con từ Quỳnh Lưu gửi cho: “Biếc rụng cành ngô sân phượng múa” bài 6. Thơ thời niên thiếu Hồ Xuân Hương có bài Vịnh ông cắn đánh nhau, tả hai con chim phượng hoàng đất bài 35 phần C văn bản Landes.
Nhà nàng quay mặt về hướng Đông nhìn ra Hồ Tây: “Đối mặt trời xanh, mưa móc thuận”, bài I.
Nhà được xây cất theo hình chữ khẩu: Có tả viện làm nơi tiếp khách, bán giấy, mực, sách. “Hoa đơm tả viện hương còn ẩm”, bài 22. Hữu viện là nơi dạy học, tiền viện là nhà thờ, hậu viện là khuê phòng Hồ Xuân Hương.Chính giữa, sân trống có hòn non bộ và chậu kiểng: “Chim hót non hàn khói biếc dâng”, bài 22
I.3.
Cổ Nguyệt đường cũng không xa Đền Khán Xuân, nay là khu đình làng Nghi Tàm, nơi đó cha, anh Nguyễn Du có ngôi nhà mát để câu cá. Nguyễn Du sau ba năm(1787-1790) chu du Vân Nam, Trường An, Hàng Châu gặp anh Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn tại Hoàng Châu, trở về ở Thăng Long ở với anh Nguyễn Nể. Trong bài Mộng đắc thái liên, Nguyễn Du gọi Xuân Hương là lân nữ, cô hàng xóm, và hẹn hò cùng nàng hái sen. Mối tình ba năm (1790-1793) “Chữ tình chốc đã ba năm vẹn” - Thơ Hồ Xuân Hương bài Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu, hầu Nghi Xuân, Tiên Điền nhân.
Mơ thấy hái sen (Mộng đắc thái liên)Bài Mộng đắc thái liên, Nguyễn Du làm khoảng năm 1804-1805, sau khi được triệu vào kinh đô Huế thăng chức Đông các học sĩ, chức vụ thân cận vua Gia Long, hàng ngày dâng sách cho vua đọc, bàn luận cùng vua về trị nước, thảo các chiếu biểu cho vua. Nhìn hồ sen hồ Tịnh Tăm, Nguyễn Du không khỏi nhớ đến những ngày mơ mộng hơn mười năm xưa đã cùng nàng cô hàng xóm, hẹn nàng đi hái sen,nàng đã đến trong lòng chàng từ lúc nào, tiếng nàng vọng từ sau khóm hoa. Nguyễn Du kín đáo ví von tình mình như sợi tơ bền vấn vương hoài không dứt. Xắn gọn chiếc quần ống rộng có dây thun phía dưới, phùng ra như cánh bướm, chèo thuyền đi hái sen, nước hồ lai láng, dưới nước in bóng hai người. Hái sen Hồ Tây, hái hoa và hái gương, hoa tặng người mình kính, gương tặng người mình thương. Hôm ấy đi hái sen, hoa Nguyễn Du tặng cho bà Hà, mẹ của Xuân Hương và anh Nguyễn Nể, và gương có lẽ tặng hết cho Phi Mai để nấu chè hột sen! Sáng sớm đi hái sen, hẹn với nàng láng giềng, nàng đến không biết tự lúc nào, sau khóm hoa đã nghe nàng cười nói ròn rã. Ai cũng thích hoa sen, nhưng mấy ai thích thân hoa sen, có những sợi tơ bền, vấn vương không bao giờ dứt. Nguyễn Du đã kín đáo ví lòng mình, mối tình với nàng không bao giờ dứt. Lá sen màu xanh xanh, hoa sen đẹp xinh xinh, vì đâu ai hái đã làm lìa ngó, mà năm sau chẳng có hoa sen?
I.
Xắn gọn quần cánh bướm,
Chèo thuyền nan hái sen.
Nước hồ dâng lai láng,
Bóng người soi nước trong.
I.
Khẩn thúc giáp điệp quần
Thái liên trạo tiểu dĩnh.
Hồ thuỷ hà xung dung,
Thuỷ trung hữu nhân ảnh.
II.
Tây Hồ, hái, hái sen,
Hoa, gương chất mạn thuyền,
Hoa tặng người mình kính,
Gương tặng người mình thương.
II.
Thái, thái Tây Hồ liên,
Hoa thực câu thướng thuyền.
Hoa dĩ tặng sở uý,
Thực dĩ tặng sở liên.
III.
Sáng nay đi hái sen.
Hẹn láng giềng đi với.
Nàng đến tự bao giờ?
Cách hoa nghe cười nói.
III.
Kim thần khứ thái liên,
Nãi ước đông lân nữ,
Bất tri lai bất tri,
Cách hoa văn tiếu ngữ.
IV.
Hoa sen ai cũng yêu,
Cọng sen nào ai thích,
Trong cuống có tơ bền.
Vấn vương hoài không dứt.
IV.
Cộng tri liên liên hoa,
Thuỳ giả liên liên cán.
Kỳ trung hữu chân ty,
Khiên liên bất khả đoạn.
V.
Lá sen màu xanh xanh,
Hoa sen đẹp xinh xinh,
Hái chớ làm lìa ngó,
Năm sau sen chẳng sinh.
V.
Liên diệp hà thanh thanh,
Liên hoa kiều doanh doanh.
Thái chi vật thương ngẫu,
Minh niên bất phục sinh.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Đề chùa Trấn Quốc (Đề Trấn Quốc tự)I.5.
Ai người đến đó, khách đài trang,
Nhẹ lướt êm êm cơn gió Nam.
Trăng nước sóng lồng sen nõn cánh,
Khói hương tàn báu hạc bay ngàn.
Rửa niềm trần tục hoa hàm tiếu,
Gợi tỉnh niềm mơ cỏ thấm xuân.
Đến cảnh quay đầu người muốn hỏi,
Đông Nam tay vẫy nhạn tung đàn.
Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến huân.
Thuỷ nguyệt ba lung liên quải choát,
Hương yên bảo thoại lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thoại,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vấn,
Đông Nam phất tụ nhạn thành quần.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ
Hỏi trăngI.6.
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó,
Hay có tình riêng với nước non.
Duyên kỳ ngộI.7.
Nghìn dậm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh,
Tấc gang tay hoạ thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẳn bút đề đường chỉnh chiện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh,
Tuy không thả lá trôi dòng ngự.
Chim tới vườn đào thế mới xinh.
Tưởng đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút phụng trìnhChú thích:
Ba sinh tự hẹn nghĩa non vàng
Man mác lòng riêng lại ngỡ càng.
Lối bước đèo mây đành chẳng đã,
Mảnh nguyền hương lửa ngỡ lên đường.
Nước non lời nọ nào chuông chắn,
Trăng gió lòng kia mãi chán chường.
Đày đoạ thân này thôi chẳng tiếc.
Thương sao cho trọn tấm lòng thương.
Lưu biệt bạn khăn gói sang sông Nam (Giang Nam phụ níp khiêm lưu biệt hữu nhân)Chú thích:
Khăn gói bây giờ vạn dặm nao,
Trường đình rượu tiễn chén mời trao.
Buồm căng đôi cánh sầu nghiêng nặng.
Sầu nén sông sâu nước chẳng trào.
Cỏ cũ lặng nhìn hương chửa mất.
Xa quê quay ngóng núi quê cao.
Xa nhau còn có ngay gặp lại,
Thề biển tha cho ngọn sóng đào.
Phụ níp kim tòng vạn lý dao,
Trường đình tửu tiễn thượng thù giao.
Muộn đôi phàm tịch thuyền thiên trọng,
Sầu áp giang tâm thuỷ bất trào.
Cựu thảo ngưng mâu hương vị tán.
Tha hương hồi thủ vọng cô cao
Tuy nhiên thượng hữu tương phùng nhật,
Thệ hải minh sơn nhất lãng đào.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ
Thạch đình tặng biệtI.10.
Đường nghĩa bấy lâu trót vẽ vời,
Nước non sầu nặng muốn đi về.
Cung hoàng dịu vợi đường khôn lọt,
Đường nguyệt mơ màng giấc hãy mê.
Đã chắc hương đâu cho lửa bén,
Lệ mà hoa lại quyến xuân đi.
Xanh vàng chẳng phụ lòng ân ái,
Tròn trặn gương tình cũng có khi.
Thơ chữ Nôm Thanh Hiên Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương chép trong Lưu hương ký.
Hoạ Thanh Liên Chí Hiên nguyên vậnNguyễn Du có dạy đàn cho Hồ Xuân Hương. Trong thơ Phạm Đình Hổ bài Sở hữu cảm có câu: “Buông đàn cười chẳng gảy, Ngại làm ai chạnh lòng”.
Khúc hoàng tay nguyệt còn chờ dạy,
Cánh phượng đường mây đã vội chi.
Chua xót lòng xem lời để lại,
Hững hờ duyên bấy bước ra đi.
Thử vàng đá nọ treo từng giá,
Phong gấm hoa kia nở có thì,
Đào thắm mận xanh còn thú lắm,
Xuân ơi đành nở đứt ra về.
Thơ Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương ký.
Nhân tặngII.3.
Nghiêm thẳm hầu môn biết mấy trùng,
May chăng khôn lẽ dám pha xông.
Mấy hàng chữ mực châu lai láng,
Một mảnh tờ mây ý mộng mong.
Buông thả luống e khơi ngọn nước.
Gửi trao còn ngại mỏi vai hồng.
Người tiên ví chẳng soi trần thế,
Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng.
Gửi bạn (Ký hữu)II.4.
Mờ mịt không trung gió bụi trần,
Cửa gài, kê gối mãi nằm không.
Một vầng trăng sáng tình ta đó,
Trăm dậm Hồng sơn chính khí cùng.
Trước mắt phù vân, ôi thế sự,
Bên lưng trường kiếm nổi thu phong.
Đầu sân ngóng trúc lòng không nói,
Sương tuyết tiêu tan sẽ hoá rồng.
Mạc mạc trần ai mãn thái không.,
Bế môn cao chẩm ngoạ kỳ trung.
Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại,
Bách lý Hồng Sơn chính khí cùng.
Nhãn để phù vân khan thế sự,
Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc.
Sương tuyết tiêu thời hợp hoá long.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch
Đêm thu cảm hoài (Thu dạ hữu hoài)II.5.
Đêm tàn người thức lòng ngơ ngẩn,
Rượu lạnh lầu mây bạc ánh tà.
Nước chảy gió đùa trơ mặt ngọc,
Hoa hoa, nguyệt nguyệt nỗi lòng ta.
Xuân vắng vẻ,
Xuân hứng chẳng nhiều ư?
Bóng nhạn về đâu mây ở lại,
Dế trùng than khóc nước trôi hờ,
Đêm tàn nên lo.
Dạ thâm nhân tỉnh độc trù trù
Vân lâu tửu lãnh ngân hoàn bán.
Thuỷ khoát phong trường ngọc lậu cơ.
Hoa hoa, nguyệt nguyệt chủ nhân cô.
Xuân tịch tịch,
Xuân hứng bất đa hồ?
Nhạn ảnh hà qui vân tự trụ.
Trùng thanh như khốc thuỷ không lưu;
Tuế án tu liên.
Nhất Uyên dịch thơ
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương.
Đêm thu I (Thu dạ I)II.6.
Đầy trời sao sáng bạc sương dâng,
Dế lạnh tường đông thảm thiết buồn.
Vạn dậm tiếng thu rung lá rụng,
Một trời khí lạnh vắng mây vương.
Già rồi tóc bạc lòng thêm xót,
Ở mãi non xanh chẳng chán chường.
Ngán nỗi bên trời lòng khách mệt,
Suốt năm nằm bệnh Quế giang tân.
Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân,
Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp,
Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân.
Lão lai bạch phát khả liên nhữ,
Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân.
Tối thị thiên nhai quyện du khách,
Cùng niên ngoạ bệnh Quế giang tân.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ
Mưa thu (Thu vũ)II.7.
Trời thảm mây dăng tối mịt mùng,
Mưa thu tí tách nhỏ ngoài sân.
Cây khô dài ngắn rơi hàng lệ.
Tàu chuối vàng tơi tiếng chậm nhanh.
Ngâm dứt đê mê sầu vạn dặm,
Buồn dâng quạnh quẽ nỗi năm canh.
Khuê phòng riêng khổ người nhan sắc,
Một phiến sầu vương vẽ chẳng thành.
Thiên cách vân âl thảm bất minh,
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Doản trường khô thụ chi đầu lệ,
Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Sầu khiên liêu tịch ngũ canh tình.
Thâm khuê tối khổ như hoa diện
Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ.
Đêm thu II (Thu dạ II)Chú Thích:
Móc trắng sương thu dăng mịt mùng,
Dìu hiu cây cỏ bến giang thành.
Đèn khuya quạnh quẽ đêm dài ngóng,
Vắt tóc lo hoài chí nhạt tan.
Vạn dặm giang sơn dài nỗi nhớ,
Bốn mùa mây nước ngậm ngùi trông.
Chớm lạnh mới hay không áo khổ,
Tiếng chày khuê phụ, bóng chiều phong.
Bạch lộ sương vi thu khí thâm,
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm.
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ,
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm.
Thiên lý giang san tần trường vọng,
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
Hà xứ không khuê thôi mộ châm.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Ngày thu kinh đô cũ (Cố kinh thu nhật)Chú thích:
Thấm thoát đường thu ánh nguyệt tà
Chốn xưa rượu chuốc chén phồn hoa.
Dòng Tô nước cuốn về Tây mãi,
Tam Đảo trời quang vọng Bắc xa.
Đèn nguyệt chăn xanh thương vật cũ,
Sương buông móc trắng đọng bên nhà.
Ước gì gặp lại vơi mong nhớ
Khách cũ, năm tàn mãi thế ai?
Nhiễm nhiễm chinh đồ thu nguyệt tà.
Nhất bôi hoàn đối cựu phồn hoa.
Nhất Tô thuỷ lạo Tây vô tận,
Tam Đảo tình quang Bắc vọng xa.
Đăng nguyệt thanh chiên bi cố vật,
Sương tiền bạch lộ lạc thuỳ gia.
Thử lai tương đối trùng tương đắc
Khách cũ niên thâm nhược nại hà?
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Hương đình cổ nguyệt thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Mở cửa sổ (Khai song)Chú thích:
Trước nhà cảnh vật đã ra sao,
Mở cửa ngày nhàn sinh ý nhiều.
Sáu tháng gió tung bằng lượn mãi;
Một sân mưa đọng kiến bò cao.
Chăn xanh vật cũ khư khư giữ.
Tóc bạc hùng tâm luống nghẹn ngào.
Trở bệnh hãy còn lo chạy chữa,
Biết chi Phạm Trọng Chánh đến nhà nao?
Môn tiền yên cảnh cận như hà?
Nhàn nhật khai song sinh ý đa.
Lục nguyệt bồi phong bằng tỉ địa.
Nhất đình tích vũ nghĩ di oa.
Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,
Bạch phát hùng tâm không đốt ta.
Tái bệnh thương tu điều nhiếp lực,
Bất tri Phạm Trọng Chánh đáo thuỳ gia.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ.
Ngày thu tức cảnh (Thu nhật tức sự)II.11.
Đêm qua lành lạnh gió Tây về,
Dậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi.
Mưa nặng sông chia mờ mặt nước,
Mây trơ núi biếc vẽ đường mi
Sen tàn cuối hạ làn xuân rớt,
Liễu rũ hương thừa áo biếc che.
Chim hót nỗi mình ai có thấu,
Lời lời còn đọng mối tình quê.
Tây phong tạc dạ áp hàn chi,
Ly cúc tiêu sơ tuyết vị chi.
Mật vũ tà phi phân thuỷ diện,
Cô vân miêu chức viễn sơn mi.
Liên dư tàn hạ lưu xuân đới,
Liễu bạng hương du lão thuý y,
Đề điểu mạc phi tri ngã huống.
Thanh thanh trường động cố hương tri.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Hương đình cổ nguyệt thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Ngày thu cảm hứng (Thu nhật ký hứng)Chú thích:
Gió Tây mới đến khách chưa về,
Khí lạnh mười phần dạ tái tê.
Nước cũ non sông trời lặng ngắm,
Quê người thân thế gửi mây che.
Cái già chợt sợ nay đà đến,
Thu đến nơi nơi đêm trước nghe.
Tự trách bạc đầu ta vụng tính,
Lá vàng rơi rụng, rụng đầu hè.
Tây phong tái đáo bất qui nhân,
Đốc giác hàn uy dĩ thập phần.
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật,
Tha hương thân thế thác phù vân.
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị,
Hà xứ thu thanh tạc dạ vân,
Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Mãn đình hoàng lạc diệp phân phân.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Hoạ nhânII.13.
Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu;
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lâu.
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Lưu hương ký.
Ghi lại giấc mộng (Ký mộng)Chú thích:
Dòng nước ngày đêm chảy,
Người biệt chốn cố hương.
Bao năm không gặp mặt,
Làm sao hết nhớ thương.
Trong mộng rành rành thấy,
Tìm ta nơi bến sông,
Dung nhan vẫn như trước,
Y trang buồn biếng chăm.
Trước kể nỗi đau ốm,
Rồi than những ngày xa.
Nghẹn ngào không nói hết,
Dường cách bức màn sa.
Bình sinh không thuộc lối,
Mộng hồn biết thật chăng?
Núi Điệp đầy hổ báo,
Sông Lam lắm thuồng luồng,
Đường đi thật hiểm trở,
Phận gái nhờ ai không?
Mộng đến đèn côi sáng,
Mộng tan gió lạnh lùng,
Người đẹp nào thấy nữa,
Lòng ta rối tơ vương.
Nhà trống vầng trăng xế,
Soi manh áo cô đơn,
Thệ thuỷ nhật dạ lưu,
Du tử hành vị qui.
Kinh niên bất tương kiến,
Hà dĩ uý tương ti (tư).
Mộng trung phân minh kiến,
Tầm ngã giang chi mi.
Nhan sắc thị trù tích,
Y sức đa sâm si.
Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn,
Kế ngôn cửu biệt ly.
Đái khấp bất chung ngữ,
Phảng phất như cách duy.
Bình sinh bất thức lộ,
Mộng hồn hoàn thị phi?
Điệp sơn đa hổ trĩ,
Lam thuỷ đa giao ly,
Đạo lộ hiểm thả ác,
Nhược chất tương hà y?
Mộng lai cô đăng thanh
Mộng khứ hàn phong xuy,
Mỹ nhân bất tương kiến,
Nhu tình loạn như ti.
Không lâu ốc tà nguyệt,
Chiếu ngã đan thường y.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch.
Chí Hiên tặng III.15.
Chữ giao nguyền với mấy năm tròn,
Xe nón tình kia mãi mãi còn.
Chẳng biết dạ người đen tựa mực,
Sao hay lòng khách thắm như son.
Còn tai chữa lãng lời vàng ngọc,
Có mắt mà xem mặt nước non.
Chớ trách chúa Xuân lòng mỏi mệt;
Mận đào được thế tiếng công môn.
Thơ chữ Nôm Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương lưu trong Lưu hương ký.
Chí Hiên tặng IINguyễn Du tìm đến nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, bên bờ sông Nhị, Đoàn đang làm quan Tây Sơn, nhà cao cửa rộng: Trên bờ sông Nhị nhà chen gần, Đã chiếm cả thành hết cảnh xuân, Cầu gác Đông Tây cao ngất dựng. Chẳng kém gì các biệt thự các vị quan ngày nay. Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn gả em gái út, và giao cho gia trang tại Quỳnh Hải năm 1797. Từ đây Mùa Xuân Quỳnh Hải, sau khi góc biển chân trời ba chục tuổi, Nguyễn Du mới biết đến hạnh phúc: Trăng sáng đầu xuân toả ngập tràn, Bao giờ trăng chẳng nhạt thuyền quyên, Một trời xuân hứng nhà ai lạc. Muôn dậm Quỳnh Châu nguyệt sáng ngần. Ở đây Nguyễn Du chấm dứt cuộc đời Mười năm gió bụi có vợ con, dạy học, dạy văn và võ, hoàn tất Truyện Kiều. Năm năm Quỳnh Hải (1797-1802) Nguyễn Du đã giàu có, nên khi Vua Gia Long kéo quân ra đất Bắc đánh bắt vua Tây Sơn, Cảnh Thịnh. Nguyễn Du từ Quỳnh Hải dẫn thủ hạ, học trò và tráng đinh Quỳnh Hải, đem theo lương thực, ngựa,bò, heo dâng sớ đón rước nhà vua. Đến Phù Dung trấn Sơn Nam thì gặp Vua Gia Long, vua phong ngay cho làm tri huyện Phù Dung. Sự kiện này tương tự như Phi Tử thời Chiến Quốc, người đất Phù Ngưu dâng ngựa lên Vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung nước phụ chư hầu. Từ đó Nguyễn Du có tên Phi Tử, Nguyễn Hành trong Minh Quyên thi tập bài Đi săn có nhắc đến bút hiệu này.
Rủi may nào sá nghĩ cùng thông,
Chưa dễ tri âm tỏ nỗi lòng.
Ra Bắc phen này mong nổi việc.
Vào Nam ngẩm trước cũng hoài công.
Bạn tao năm hết mâm trà lạt.
Quán khách canh chảy mảnh áo mong.
Gớm nhẽ trông ra mù khói bể
Nguyệt đường bao nã thấy gương trong
Đọc Tiểu Thanh ký (Độc Tiểu Thanh ký)Chú thích:
Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu,
Bên cửa viếng nàng một áng thư.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương vô mệnh cháy còn dư.
Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách luỵ sầu.
Ba trăm năm nữa trong thiên hạ,
Còn Nàng ai khóc một niềm đau.
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu.
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bách tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp tố như?
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ
Giã từ Tổng CócHồ Xuân Hương, trở về Cổ Nguyệt đường, dù mang thai 6 tháng, sợ dư luận dị nghị, nàng ra phố Nam, mở tiệm bán sách, bút giấy mực, cạnh trường ông nghè Phạm Quý Thích gần đền Lý Quốc Sư. Mượn tiền Phạm Đình Hổ và bè bạn, Xuân Hương đã mở quán sách này. Tốn Phong đến thăm Xuân Hương sau hai lần hỏng thi khoa 1806 và 1813. Tốn Phong đến gặp Xuân Hương tại hiệu sách, sau khi nàng đã sinh con: “Mai lạnh vẫn thường than nỗi khổ, Chốn dời Mai mới nở thêm cành” (bài 15) Tiếc thay đứa con gái mất sớm, nàng không nuôi được. Năm ấy nàng 35 tuổi, sắc đẹp mặn mà làm tốn phong ca tụng tít trời xanh. Quán sách nàng là nơi các học trò ông nghè Phạm Quý Thích lui tới, để ngắm bà chị.
Chàng Cóc ơi! Chàng cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng chỉ thế thôi,
Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé!
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Chơi Tây Hồ nhớ bạnChú thích:
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa,
Người đồng châu trước biết bao giờ.
Nhật Tân đê lỡ nhưng còn lối,
Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ,
Nọ vực Trâu vàng trăng lặng bóng,
Kìa non Phương đất khói tuôn mờ.
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy,
So dạ hoài nhân dễ chưa vừa.
Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu (Hầu Nghi Xuân, Tiên Điền nhân)Chú thích:
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu hương ký.
Mừng gặp bạn ở sông Hoàng.IV.3.
Nhà xuân từ được bén hơi xuân,
Nửa khắc vàng xem trọng mấy cân.
Trót hẹn nhớ cho đành một kiếp,
Nặng nề quên cả đến trăm thân.
Cạn dòng Tô Thuỷ còn duyên nợ,
Đầy giọt Hoàng giang những ái ân.
Nồng nhạt mặc dù đâu nhẽ dám,
Tất son này vẫn thắm mười phân.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu hương ký.
Hoài cựu (Nhớ bạn cũ)Biết rằng mối tình ngang trái, không còn gì nữa. Hồ Xuân Hương dứt khoát để yêu Tri phủ Tam Đái Vĩnh Tường Trần Phúc Hiển sau được thăng làm Tham Hiệp Trấn Yên Quảng. Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi; Xuân Hương góp thơ thành tập cuối cùng Hương đình cổ nguyệt thi tập. Tập này bị phân tán thành nhiều mảnh. Tôi sẽ sắp xếp lại toàn bộ tập thơ vịnh cảnh này.
Chữ tình ngang ngửa biết bao nhiêu,
Một chút duyên xưa dỡ lắm điều.
Bèo lạc không kinh còn trẻ lại.
Trăm hoa thêm tủi cái gì theo.
Tài tình nợ ấy vay nên trả,
Phong cảnh vui đâu đã gửi nhiều.
Đưa đón biết tường tay đại tạo,
Cánh hoa trên nước thắm tin triều.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Lưu hương ký.
Đăng bởi phuongngtl vào 15/05/2019 09:59
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa