4814.23
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
216 bài thơ
39 bình luận
180 người thích
Tạo ngày 01/06/2004 00:57 bởi Vanachi, đã sửa 3 lần, lần cuối ngày 22/08/2010 19:50 bởi Vanachi
Hàn Mặc Tử (22/9/1912 - 11/11/1940) tên thật Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Phêrô Phanxicô, còn có các bút danh Lệ Thanh, Phong Trần, Minh Duệ Thị. Ông sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình công giáo nghèo, cha mất sớm. Thuở nhỏ sống và học tiểu học ở Quy Nhơn, học trung học ở Huế, sau làm ở Sở Đạc Điền, bị thôi việc vì đau ốm. Năm 1934-1935, ông theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau lại trở ra Quy Nhơn. Năm 1936, bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Quy Nhơn và qua đời ở đó.

Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị. Năm 1930, ông đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập Trường thơ…

 

  1. Ái khanh hỡi
  2. Anh điên
  3. Ăn tết
  4. Âm thầm
    2
  5. Bán túi thơ
    1
  6. Bán túi thơ (tự hoạ)
  7. Bắt chước
  8. Bẽn lẽn
    11
  9. Bến Hàn Giang
    1
  10. Biển hồn ta
  11. Biết anh
  12. Buồn ở đây
  13. Buồn thu
    2
  14. Bút thần khai
  15. Bức thư xanh
  16. Bước giang hồ
  17. Ca dao (I)
    1
  18. Ca dao (II) Em sắp lấy chồng
  19. Ca dao (III)
  20. Cảm tác
  21. Canh khuya cảm tác
  22. Cảnh Phan Thiết trong ngày tuần du
  23. Cao hứng
  24. Chạy theo hạnh phúc
  25. Chiêm bao với sự thực
  26. Chơi giữa mùa trăng
  27. Chơi thuyền gặp mưa
  28. Chơi trên trăng
  29. Chùa hoang
  30. Chùa ông núi Phù Cát
  31. Chuỗi cười
  32. Chuyến đò ngang
  33. Chưa biết yêu
  34. Cô bán trầu
  35. Cô Bích Ngọc trả lời
  36. Cô gái đồng trinh
    7
  37. Cô liêu
  38. Cuối thu
  39. Cửa sổ đêm khuya
    2
  40. Cưới xuân, cưới vợ
  41. Dấu tích
  42. Duyên kỳ ngộ
  43. Duyên muộn
  44. Đà Lạt trăng mờ
    1
  45. Đàn ngọc
    1
  46. Đàn nguyệt
    3
  47. Đánh lừa
  48. Đây thôn Vĩ Dạ
    26
  49. Đêm khuya ở nhà quê
  50. Đêm khuya tự tình với sông Hương
  51. Đêm trăng
  52. Đêm xuân cầu nguyện
  53. Đi thuyền
  54. Điềm lạ
  55. Đón gió
  56. Đôi ta
    2
  57. Đời phiêu lãng
    1
  58. Em đau
  59. Em điên
  60. Em làm dáng
  61. Em lấy chồng
  62. Em sắp lấy chồng
    1
  63. Gái lấy chồng già
  64. Gái ở chùa
    1
  65. Gái quê
  66. Ghen
    1
  67. Ghẹo cô bán chè bông cỏ
  68. Giang hồ nhớ mẹ
  69. Gởi cho người không quen biết
  70. Gửi anh
  71. Hái dâu
  72. Hái trầu tươi
  73. Hát giã gạo
  74. Hãy đón hồn anh
  75. Hãy nhập hồn em
  76. Hình ảnh xưa
  77. Hỏi thăm cô Bích Ngọc
    1
  78. Hồn cúc
  79. Hồn là ai
  80. Hồn lìa khỏi xác
  81. Hồn qua đêm
  82. Hồn thơ
  83. Huyền ảo
  84. Hương
  85. Kén chồng
  86. Kêu gọi
  87. Khách qua đường và cô bán trầu
  88. Khao khát
  89. Khói hương tan
  90. Khóm vi lau
  91. Khuê phụ thán
  92. Lang thang
  93. Linh hồn thanh khiết
    1
  94. Lòng anh
  95. Lòng quê
    1
  96. Lượng vàng
  97. Lưu luyến (I)
  98. Lưu luyến (II)
  99. Mất duyên
  100. Một cõi quên
    5
  101. Một đêm nói chuyện với gái quê
  102. Một miệng trăng
  103. Mơ duyên
  104. Mơ hoa
  105. Mơ...
  106. Mùa thu chưa tới
  107. Mùa thương Rụng rồi
  108. Mùa xuân chín
    18
  109. Muôn năm sầu thảm
  110. Này đây lời ngọc song song
  111. Nắng tươi...
  112. Nắng vàng
  113. Ngày mai...
  114. Ngày tết xa nhà
  115. Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa
  116. Ngâm vịnh (I)
  117. Ngâm vịnh (II)
  118. Ngâm vịnh (III)
  119. Ngoài vũ trụ
  120. Ngoạn cảnh chùa (I)
  121. Ngoạn cảnh chùa (II)
  122. Ngủ mớ
  123. Ngủ với trăng
  124. Nguồn thơm
  125. Người ngọc
    3
  126. Nhạc
  127. Nhạc bay
  128. Nhàn
  129. Nhớ chăng?
  130. Nhớ nhung
  131. Nhớ thương
    1
  132. Nhớ Trường Xuyên
    2
  133. Những giọt lệ
    1
  134. Nói tiên tri
  135. Nỗi buồn vô duyên
  136. Nụ cười
  137. Núi Vọng Phu
  138. Nước mây
  139. Phan Thiết! Phan Thiết!
  140. Phong hoa tuyết nguyệt
  141. Phút mơ màng
  142. Quả dưa
  143. Quan niệm thơ
  144. Quần tiên hội
    1
  145. Ra đời (I)
    1
  146. Ra đời (II)
  147. Rướm máu
  148. Rượt trăng
  149. Sáng láng
  150. Sáng trăng
  151. Sao, vàng sao Đừng cho lòng bay xa
    1
  152. Say chết đêm nay
  153. Say máu ngà
  154. Say nắng
  155. Say thơ
  156. Say trăng
    4
  157. Sầu vạn cổ
  158. Sầu xuân
  159. Siêu thoát
    1
  160. Sống khổ và phấn đấu
  161. Sớm mồng một Tết đi xe lửa ra Huế
  162. Sượng sùng
  163. Ta nhớ mình xa (Một nửa trăng)
  164. Tài hoa
  165. Thanh nhàn
  166. Thánh nữ đồng trinh Maria Ave Maria
    4
  167. Thao thức
  168. Thắm thiết
  169. Thầm lặng
  170. Thi sĩ Chàm
  171. Thơ
  172. Thời gian
  173. Thuật hoài
  174. Thức khuya (Đêm không ngủ)
  175. Thương
  176. Tiếng nấc...
  177. Tiếng vang
  178. Tiêu sầu
    1
  179. Tình
  180. Tình hoa
  181. Tình quê
    1
  182. Tình thu
    1
  183. Tôi không muốn gặp
  184. Tối tân hôn
    1
  185. Tôi thích làm con gái
  186. Tởn làm thơ Đường luật
  187. Trả lời người rao bán thơ
  188. Trả lời người rao bán thơ (tự hoạ)
  189. Trái mùa
  190. Trăng tự tử
  191. Trăng vàng trăng ngọc
  192. Trên bờ
  193. Trên cầu Tràng Tiền
  194. Trên dòng tiêu Kim Thuỷ
  195. Trồng hoa cúc
  196. Trút linh hồn
  197. Trường thọ
  198. Trường tương tư
  199. Tuồng đời
  200. Tự thuật
  201. Tự trào
  202. Tương tư
  203. Uống trăng
  204. Ưng trăng
  205. Ước ao
  206. Vẩn vơ...
  207. Vầng trăng
  208. Vịnh hoa cúc
  209. Vịnh lầu ông Hoàng
  210. Vô đề
  211. Vội vàng chi lắm
    3
  212. Vớt hồn
    1
  213. Xuân đầu tiên
  214. Xuân hứng
  215. Xuân như ý
  216. Ý trinh

Tuyển tập chung

 

 

Trang trong tổng số 4 trang (39 bình luận)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4]

Ảnh đại diện

Thêm một tư liệu mới về Hàn Mặc Tử

Là người chuyên tâm nghiên cứu, sưu tầm tư liệu mới về nhà thơ Hàn Mặc Tử gần 30 năm qua, tôi đã đi gần hết các nơi ông sinh sống, làm việc và qua đời.

Tôi vui mừng khi đến tư gia nhà thơ Quách Tấn ở 12 Bến Chợ - Nha Trang xin được tập thơ Một tấm lòng xuất bản năm 1939, có nhiều bài thơ Đường luật xướng hoạ giữa Hàn Mặc Tử và Quách Tấn, mà trong đó có chữ ký “bệnh hoạn” của Hàn Mặc Tử ở cuối bài Lời Bạt. Và nhân tiện cũng tại Nha Trang, tôi đến xin giáo sư Võ Văn Côn (tức nhà văn Châu Hải Kỳ) bản sao học bạ trường Pellerin Huế mà cậu học trò Nguyễn Trọng Trí học từ năm 1928 đến năm 1930. Năm 1991, tôi ra khu điều trị phong Qui Hoà - Qui Nhơn, gặp bác sĩ giám đốc Nguyễn Hữu Ngoạn và xin ông lục cho giấy nhập viện của bệnh nhân số 1134 Nguyễn Trọng Trí ngày 20-9-1940. Đầu năm 1996, trên đường đi tìm tư liệu bổ sung cho cuốn sách Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử của tôi sắp ra đời, tôi đã được ông Nguyễn Đức Trinh - Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Hoà Khánh (QNĐN) và linh mục Joe. Nguyễn Văn Thông - chánh xứ Hoà Khánh chân tình giới thiệu đến giáo xứ Tam Toà - Đà Nẵng tìm “giấy rửa tội” của cậu bé trai sinh ngày 22-9-1912 tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới.

Khi được biết tôi là người đã gửi thư nhờ giáo sư lục trước đó, Linh mục chánh xứ Phao Lô Lê Đình Chiến nói rõ ông đã tìm không có và ông nghĩ chắc chắn Hàn Mặc Tử không được “phép rửa tội” tại giáo sứ Tam Toà (trước đây ở Đồng Hới). Nghe vị chánh xứ Tam Toà đời thứ 63 khẳng định Hàn Mặc Tử không phải là con chiên của họ đạo mình, nhưng lòng tôi vẫn tin tưởng là có nên tôi đã khẩn khoản xin ông lục lại kỹ hơn.

Sau một giờ lần giở, chăm chú đọc kỹ từng trang ở cuốn thứ 2 từ 1905 đến 1914 của giáo xứ và hỏi “kiểm tra” thấy tôi hiểu biết về cha mẹ Hàn Mặc Tử, tên thật, Thánh danh, thì ông vui mừng bảo tôi lại gần xem trang ghi ngày, số thứ tự giáo dân bằng chữ la tinh. Ông đã dịch cho tôi nghe bằng chữ Việt như sau: “- Số thứ tự 437 - ngày 15 tháng 9 năm 1912 - tại giáo xứ Tam Toà - một bé trai sơ sinh - sinh ngày 22 cùng tháng như trên (tháng 9) - tại làng xứ Tam Toà - con ông Vincent Thầy Toản và bà Maria Duy được chịu phép rửa tội do tôi ký tên dưới đây mang tên Thánh Francois (Phan xi cô) - người cha đỡ đầu là Francois Thầy Thông Hài ở cùng địa phương giáo xứ. Tôi chứng nhận - giuse Trần Phan-Linh mục bản quốc”.

Cùng tham dự niềm vui mừng khôn tả với linh mục chánh xứ và tôi hôm ấy còn có ông Nguyễn Thanh Kim - Phó chủ tịch Uỷ ban đoàn kết công giáo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đến viếng thăm giáo xứ trong dịp đầu năm.

Hàn Mặc Tử ơi! Từ 55 năm sau khi ông qua đời đến nay, ai cũng đều viết sai về Thánh danh “rửa tội” theo tôn giáo (công giáo) của ông. Đến cả ông Nguyễn Bá Tín (em ruột kế Hàn Mặc Tử) trong sách hồi ký Hàn Mặc Tử - Anh tôi (NXB Văn nghệ TPHCM, 1991) cũng đã ghi nhầm tên Thánh rửa tội là Phêrô, Thánh thêm sức là Phan xi cô Xavit (trang 12 chương Một ít lịch sử dòng họ, sđd).

Còn ông Quách Tấn là nhà thơ, bạn thân Hàn Mặc Tử được gia đình giao toàn bộ di cảo, thế mà vẫn viết từ năm 1959 ở Đôi nét về Hàn Mặc Tử là “tên Thánh là Phêrô Phanxicô” (trang 27 thơ Hàn Mặc Tử - Sở VHTT Nghĩa Bình xuất bản 1988, in lần thứ hai có bổ sung).

Nhà thơ Chế Lan Viên là bạn thân cận nhất ở Qui Nhơn mà khi làm Tuyển tập Hàn Mặc Tử (NXB Văn học, 1987) ở trong tiểu sử vẫn viết Hàn Mặc Tử “tên Thánh là Pierre kế đó là Prancois” (sách trên tái bản 3 lần).

Để xác minh “giấy rửa tội” có tên Thánh danh cha mẹ nhà thơ Hàn Mặc Tử đúng như mộ phần tôi đã cùng nhà thơ, nhà giáo Mai Văn Hoan đang giảng dạy chuyên văn trường Quốc học Huế và nhà văn nhiếp ảnh Lê Đức Bổn đến viếng mộ cụ Vincent Nguyễn Văn Toản ở ngọn đồi sau nhà thờ Phường Đức, gần đền thờ Thánh tử đạo Tống Viết Bường và đình làng Dương Xuân Thượng, thuộc thôn Thượng Bôn, ấp Sơn Điền, xã Thuỷ Xuân, ở ngoại vi thành phố Huế.

Trước đó, vào dịp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm (8-12-1995), tôi đã cùng các bạn văn: Nguyễn Thanh Xuân, Trần Viết Dũng và Trần Hoa Khá ở Qui Nhơn đến kính viếng mộ mẹ Hàn Mặc Tử là cụ Maria Nguyễn Thị Duy ở Gồ Bồi, thôn Tùng Giảng, xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Sau khi công bố tư liệu quý này, tôi sẽ tiếp tục đi tìm “giấy thêm sức” (với người Công giáo, sau khi chịu phép rửa tội lúc mới sinh. Từ 6 đến 10 tuổi được cho học giáo lý và chịu phép thêm sức) của Hàn Mặc Tử xem có phải tên Phêrô hay không vì “Phanxicô” đã rõ tên là Thánh rửa tội rồi.

Tiện đây, tôi xin thành thật cám ơn đối với Linh mục Phao Lô Lê Đình Chiến đã khổ công lục sao tặng “giấy rửa tội”, ảnh nhà thờ Tam Toà nguyên vẹn khi xưa và băng nhạc phổ thơ Duyên kỳ ngộ của Hàn Mặc Tử. Và tôi cũng không bao giờ quên truyền thống mẫu mực của giáo xứ Tàm Toà vì đã gìn giữ tốt đẹp những hồ sơ, sổ sách vẹn toàn qua gần hai thế kỷ thành lập với những cuộc chiến ác liệt, phải di dời từ Đồng Hới đến Đà Nẵng.


Phạm Xuân Tuyển

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hàn Mặc Tử và tôi

Trên tấm phản gỗ, Cụ Phan Bội Châu đắm hồn vào trang sách cổ nhân, quên mình đang ở trong nhà, cũng quên nốt đang ở trong vòng trong vòng ngoài của mật thám ma tà. Nghe có tiếng động cửa, cụ bỏ mục kỉnh trông ra thì thấy có bóng người thập thò phía ngoài rồi một chú bé dáng thư sinh khép nép bước vào nha. Giọng Huế của cụ trầm xuống, bao dung, khi chú bé đến gần bên phản “trò có việc gì cần đến cụ?” Đứng trước một ngọn núi về thơ và về mặt chí sĩ, chú bé ấp úng mới nói thành tiếng “Dạ, dạ... cụ cho phép cháu được gặp cụ” vẫn giọng độ lượng cha già, cụ chậm rãi: “Cháu là ai, tên gì, đến với cụ có việc gì?”. Như được khuyến khích, chú bé đáp trôi chảy hơn “cháu, cháu là Nguyễn Trọng Trí”. Như bị điện giật, cụ Phan giật mình ngồi thẳng lên “Trí à? có phải Trí là tác giả mấy bài thơ gửi cho tôi và đã đăng báo Tiếng dân đó phải không?”. Chú bé mạnh dạn hơn “Dạ thưa cụ phải ạ”.

Cụ già Bến Ngự bỗng à lên một tiếng, ngồi lùi về phía bên kia, đưa tay trỏ bên này phản, mời chú bé, giọng không còn bình thường “Thế thì, mời trò ngồi lên đây, nói chuyện”. Chú bé sợ quá, lùi lại mộ bước và khúm núm từ chối “Thưa cụ cháu không dám, cháu đâu dám... Cháu chỉ dám xin cụ cho ý kiến về mấy bài thơ cháu gửi cụ duyệt lãm thôi”. Cụ Phan vẫn đưa tay trỏ bên kia phản” không, không tài thơ của cháu đáng được ngồi ngang với cụ, cháu cứ ngồi đây”. Thấy cụ kiên trì ý kiến, chú bế bèn leo lên phía trong phản, nép mình sát tường - giọng ngâm thơ của cụ Phan sang sảng như có lửa:

Ấp úng không ra được nữa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay đi trót
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi...
Cụ Phan vỗ đùi đánh đét: Hay, hay lắm, bạc đầu trong làng thơ, không dễ gì viết được đâu... Lại còn bài khác, trò viết:
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn...
“Tuyệt! Trác tuyệt! Vừa đại khoa, vừa tài tử! Cứ yên tâm, trò đáng được ngồi ngang với cụ! Xưa nay thơ hay có ai tính tuổi đâu...”

Chú bé có cái tên quai nôi là Trí trong lần đầu tiếp xúc với nhà chí sĩ kiêm nhà thơ Phan Bội Châu ấy tên là Hàn Mặc Tử. Và từ đấy trổi lên trên mặt bằng thi ca Việt Nam một thiên tài trác tuyệt: Hàn Mặc Tử của chúng ta!

Từ nhỏ, tôi tìm đọc và thuộc không thiếu một dòng nào của Hàn Mặc Tử. Từ Gái quê đến thơ Hàn Mặc Tử đến các vở kịch thơ, đến lời đề tựa cho Tinh huyết của Bích Khê, đến bản Tụng ca Thượng đế bằng tiếng Pháp, cả bản anh tự dịch trước khi lìa trần, làm ánh sao băng chói loà cả ba ngàn thế giới thi ca đến tận ngày nay và mãi mãi về sau này.

Cũng từ nhỏ mê thơ đến chết, nhận định của tôi về ngọn cờ thơ mới 30 - 45 vẫn không thay đổi cho đến ngày nay. Phan Khôi đề xướng, Thế Lữ mở đầu, Xuân Diệu âu hoá thơ Việt, “một thiên tài sớm lộ” (Chữ trên bọc ngoài tập Thơ thơ của Tự Lực Văn Đoàn) Huy Cận sâu sắc một nổi buồn nhân thế, Chế Lan Viên ma Hời, Lưu Trọng Lư làm thơ bằng hồn chứ không bằng tay, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng rất mực tài hoa, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân trầm hùng, Nguyễn Bính truyền thống và dân dã... Nhưng vượt lên trên những đỉnh cao nói trên vẫn là Hàn Mặc Tử với châu tuần một vệ tinh là Bích Khê.

Tôi đã viết nhiều chân dung nghệ sĩ bằng văn xuôi, cả bằng thơ, nhưng nghĩ hoài, vẫn không sao lấp được hai khoảng trống lớn trong đầu tôi: Nguyễn Du và Hàn Mặc Tử. Tôi đã dám bình nhiều đoạn về Kiều, nhưng dẫu đã đi thăm vẫn chưa dám viết về mộ Nguyễn Du và Hàn Mặc Tử. Cứ mỗi lần cầm bút định viết một trong hai người, tôi đều có cảm giác ớn lạnh và “run như run thần tử thấy long nhan”. Mãi đến khi trường viết văn Nguyễn Du có một hội thảo về thơ Hàn Mặc Tử mà tôi có phần trách nhiệm, tôi phải động viên tôi nhiều đêm mới dám động đến cái thế giới thơ huyền hoặc kỳ bí ấy - cũng để, trên hết, thắp một nén hương nguyện, trả một món nợ tinh thần canh cánh trong lòng đã suýt gần nửa thế kỷ nay với người tôi tôn thờ từ nhỏ: Hàn Mặc Tử.

Cái gì đã làm tôi tự nguyện cúi đầu trước thần tượng nói trên của tôi? Trên hết mọi điều ở thiên tài này là phần tâm linh, phần huyền nhiệm, không một ai vươn tới được của anh. Với một mức độ tài năng nào đó, ta có thể bắt kịp Thế Lữ, đến gần Xuân Diệu, Huy Cận, nhưng không thể có được cái hồn trời cho của Lưu Trọng Lư và xa đến tuyệt mù với Hàn Mặc Tử và phần nửa Bích Khê, đang chiếm lĩnh cho riêng hai người cả vòm trời, cả thế giới tâm linh. Cùng ở mặt đất, không thể bén gót ngay cả việc tả chân một người lao động vốn là “nghề” sở trường của chúng ta trong nhiều thập kỷ qua, Chị ấy năm nay còn gánh thóc, dọc bờ sông trắng nắng chang chang (một vần trong ai đó đã ảnh hưởng mà người chưa đọc Hàn, cứ cuống cả lên!) đến một thương tiếc rất đời” Ngày mai anh bỏ làm thi sĩ, em lấy chồng rồi hết ước mơ” (Không còn ước mơ, không còn thi sĩ, em ở đây là cái bóng dáng hạnh phúc riêng và chung). Anh để chúng ta lại dưới trần khi đi vào cõi biếc hư linh Nhớ xưa kia ta là chim phượng hoàng, vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất, bay từ Đạo Lỵ đến cung Đâu xuất, và hùa theo không biết mấy là hương... hay Như Song lộc triều nguyên ơn phước cả, dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng, Thơm tho bay cho tới cõi thiên đàng, huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thế... Cả hiện thực ở Hàn Mặc Tử cũng huyền hoặc. Chim hay tin ngọc đá biết tuổi vàng hay ngửa nghiêng đời cao bọc trăng ngủ... Áo em trắng quá nhìn không ra. Đến cả một hiện thực không hư ảo, anh cũng vượt xa mọi người Lá trúc chen ngang mặt chữ điền... Và thật không sao hiểu được khi bên những câu tân kỳ cả về hình thức này “Trăng, trăng là trăng, trăng trăng. Ai mua trăng tôi bán trăng cho, không bán đoàn viên bán hẹn hò... lại có những câu rung động ta bằng hầu hết những từ cổ, có sẵn” Trăng cố độ hết vươn cành trúc, hẹn đoàn viên tình thực chiêm bao hay Huyền Tiên hỡi, Sao em không hội ý, đôi ta xưa vầy hiệp nợ Châu Trần... Tưởng như mọi từ ngữ đã chết đều trỗi dậy sống động dưới ngòi bút thiên tài của anh.

May mà chúng ta có đâu đó một người thương nhớ để ta nhớ họ. Thật vô cùng hạnh phúc khi trên cái bình diện thơ ca chúng ta có Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm,... và cận đại là những đỉnh thơ 30 - 45 mà chọc trời là Hàn Mặc Tử - người đầu tiên nối bước Nguyễn Du (1) chắp đôi cánh linh thần cho thơ Việt Nam bay đi chinh phục mọi tầng trời..


Trinh Đường

(1) Xin ghi nhận các câu trong Kiều “Ở đây âm khí nặng nề, Bóng chiều đã ngã dặm về còn xa - Sương in mặt tuyết phá thân, Sen vàng lảng đảng như gần như xa...”

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Dòng sông của Hàn Mặc Tử

Ông Phạm Xuân Tuyển, soạn giả cuốn Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử có lần nói với tôi, đại ý: Có người cho rằng câu thơ “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” của Hàn được viết về một dòng sông nào đó ở mạn mấy tỉnh từ Quảng Ngãi vào Phan Rang, Phan Thiết. Nghĩ cũng Chế Lan Viên có lý, bởi cái nắng miền đất ấy là nắng lửa.

Ý kiến trên có thể đúng, bởi Hàn Mặc Tử sống nhiều nhất ở miền đất ấy. Nhưng đi tìm địa chỉ cho bài thơ là việc không nên làm, nhất là với thơ Hàn Mặc Tử, ngay cả những bài thơ như Đây thôn Vĩ Dạ, ai dám bảo bài thơ viết về làng Vĩ Dạ ở Huế? Thực tế là có những bài thơ viết về một địa danh, một con người cụ thể, vẫn có những câu, những ý bắt nguồn từ vốn ấn tượng trong lịch lăm đường đời, trong vốn học và đọc trực tiếp hay gián tiếp có khi tận từ thời thơ ấu.

Đọc Mùa xuân chín, quả là không thể xác định được không gian và thời gian trong đó, ta chỉ bắt được mạch cảm xúc của nhà thơ, từ đó mà đi vào tác phẩm, mà cảm nhận. Hơn nữa, nếu theo ý kiến trên, thì cái dòng sông nào đó lại phải là dòng sông chảy giữa làng quê có người phụ nữ đang gánh thóc bên bờ nữa kia. Đến thế thì ngay cả tác giả bài thơ cũng không thể nói chắc dòng sông ấy tên gì, nằm ở đâu, còn nếu nhắm mắt nhận bừa đi, thì cũng không còn là Hàn Mặc Tử nữa!

Vậy dòng sông trong câu thơ “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” ấy nằm nơi nào? Xin thưa, dòng sông ấy nằm trong lòng Hàn Mặc Tử, trong lòng chúng ta, như bến My Lăng, như dòng sông Thương vậy. Nó là dòng tạo nên từ nhiều con sông có thật và những dòng chảy của cõi đời, của niềm vui là nỗi buồn của một thi nhân tài hoa mệnh bạc; dòng sông ấy có vô số địa chỉ, và nói đến địa chỉ nào cũng phải có cơ sở của nó. Chúng tôi xin đưa ra một địa chỉ đáng tin cậy của dòng sông ấy: sông Nhật Lệ.

Như ta biết, Hàn Mặc Tử sinh ngày 22-9-1912 tại làng Lệ Mỹ (tức phường Đồng Mỹ ngày nay) thuộc thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Đồng Mỹ là một phường hẹp, nằm kẹp giữa Quốc lộ 1A và kéo dài dọc đoạn cuối của con sông Nhật Lệ đổ ra biển. Đó là đoạn đẹp nhất của dòng sông, bên này là phố thị với thành luỹ xưa in dấu một thời trận mạc, bên kia là làng bảo Ninh với dải cát trắng đâm dài ra biển như một dải lụa khổng lồ. Không rõ ngôi nhà xưa của gia đình Hàn Mặc Tử nằm ở đâu, nhưng nhất định cũng chỉ định vị trong rẻo đất hẹp chạy dọc sông Nhật Lệ này (và tôi cứ tin rằng nó nằm rất gần khu nhà thờ Tam Toà, ngay trên đường Hàn Mặc Tử ở Đồng Hới bây giờ). Hà đã chào đời và cả tuổi thơ của hàn đã tắm trong không gian ngày đầy nắng, đêm đầy trăng này, đã ngược xuôi, xuôi ngược không biết bao nhiêu lần dọc con sông thơ mộng này… Chính cái không gian nước xanh – cát trắng - nắng vàng đôi bờ Nhật Lệ đã theo Hàn Mặc Tử suốt bao năm tháng trong vốn ấn tượng có được thuở ban đầu vô cùng quý báu, làm chất men khơi dậy bao ý thơ về sau. Hàn Mặc Tử sống 28 năm trên đời thì đã 8 năm, từ khi sinh đến lên 8 tuổi, gắn bó với Đồng Hới và sông Nhật Lệ cùng tổ ấm gia đình, bởi vậy nhiều bài thơ của Hàn sau này dù viết trong điều kiện nào cũng có thể nói đã được bắt nguồn từ cái vốn cảm xúc đầy ắp về mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình. Trăng, Biển, Chúa Trời là ba nét lớn trong thơ Hàn Mặc Tử, thì cả ba thứ ấy làng Lệ Mỹ xưa lúc nào cũng sẵn. Rõ ràng hồn thơ của Hàn Mặc Tử được mở ra từ sông Nhật Lệ. Không thể nói dòng sông trong câu thơ “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” là sông Nhật Lệ, nhưng không có sông Nhật Lệ, chắc không có câu thơ này, và thậm chí sẽ không có cả…Hàn Mặc Tử! Không nhà thơ nào thoát ly khỏi cảm xúc huy hoàng của tuổi thơ về sông núi quê hương hay chốn sinh thành mà thành nhà thơ được…

Nói đến Quảng Bình là nói đến gió Lào, cát trắng và nắng chang chang. Ai đến đất này cũng đều chung cảm nhận ấy, xưa nay đều thế. cứ lấy từ Nguyễn Du trở đi mà xem. Hình ảnh “Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” trong Truyện Kiều chắc cũng được thoát thai từ cảm xúc về những cồn cát chạy dọc suốt bờ biển Quảng Bình thời ông làm quan cai bạ nơi đây. Riêng hình ảnh nắng chang chang thì được nhắc đến nhiều hơn. Tố Hữu trong bài thơ Mẹ Suốt có câu:

Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình
Gần đây nhà thơ Nguyễn Hoa trong bài thơ Trưa Nhật Lệ lại viết:
Biển xanh, sóng trắng, cát vàng
Trời ong óng nắng chang chang Quảng Bình
Sẽ còn nhiều bài thơ viết về Quảng Bình với hình ảnh nắng chang chang, hoặc cảm nhận cái nắng chang chang của mảnh đất này để đưa vào thơ, nhưng đừng ai quên người đưa cái nắng chang chang vào thơ đầu tiên chính là Hàn Mặc Tử. Nhật Lệ là dòng sông tuổi thơ của Hàn Mặc Tử.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Ở giữa mùa trăng

Trong lịch sử thi ca Việt Nam, Hàn Mặc Tử là một thi sĩ độc đáo, có một vị trí đặc biệt. Hơn 60 năm qua từ khi qua đời, thơ của Hàn Mặc Tử vẫn rực sáng, mới mẻ và sẽ còn tiếp tục toả sáng...

Đánh giá: “...Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói loà rực rỡ của mình” (Chế Lan Viên - trích trong lời tựa cho Tuyển tập Hàn Mặc Tử, NXB Văn học, 1987)

Lâu nay, ít người để ý xem Hàn Mặc Tử sinh nhằm ngày mấy tháng mấy tính theo âm lịch. Chỉ biết Hàn Mặc Tử sinh ngày 22-9-1912. Nhờ cái máy điện thoại đời mới của anh bạn, tôi mới biết ngày sinh nhật ấy tính sang âm lịch nhằm ngày 12-8 năm Nhâm Tý. Vậy là Hàn Mặc Tử, tác giả của bài thơ văn xuôi nổi tiếng, một kiệt tác của thơ văn xuôi Việt Nam, bài Chơi giữa mùa trăng - đã sinh giữa mùa trăng. Lại là mùa trăng trung thu, thời điểm trăng sáng nhất, đẹp nhất trong năm. Từ rất nhiều năm, tôi để ý, không phải trăng rằm, trăng mười hai mới là vầng trăng huyền ảo nhất. Có lẽ vì nó chưa tới độ viên mãn, nó khao khát, nó đắm đuối.

Ánh trăng ngày chào đời

Người ta nói, với những người bị bệnh phong, ánh trăng có những tác động sinh học cực kỳ khó tả lên thân thể và đầu óc họ. Có thể như thế. Nhưng Hàn Mặc Tử đã viết Chơi giữa mùa trăng từ trước khi ông phát hiện mình mắc bệnh phong kia mà! Tôi nghĩ, chính cái ánh trăng mười hai trong ngày chào đời của ông đã ám ảnh vào cuộc đời và nhất là vào thơ của Hàn thi sĩ sau này. Và cũng phải nói thêm, chính cái ánh trăng trên bãi cát biển Quy Nhơn, nơi núi và biển ôm ấp nhau, gối đầu nhau, cái ánh trăng vừa hoang lạnh đến tê dại, vừa rừng rực một ngọn lửa không nóng nhưng thiêu đốt tận tâm hồn, mới là tác nhân giúp Hàn thi sĩ có những bài thơ trăng, những câu thơ trăng kỳ lạ vào bậc nhất không chỉ trong thơ Việt Nam. Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả... (Chơi giữa mùa trăng). Nếu những bậc rong chơi hời hợt trong thi ca vẫn gọi cái hành trình làm thơ của mình là “một cuộc chơi” thì với Hàn Mặc Tử “cuộc chơi” ấy là cuộc chơi vãi máu, mửa máu: “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy / Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” (Say trăng) - say trăng chứ không phải say rượu hay say bia. Người có thể uống ánh trăng, nuốt ánh trăng mà “say xỉn” như thế, hẳn không phải là người thường, không thể đo thơ người ấy bằng những thước đo thường.

Tận cùng của điên và tỉnh

“Người ta gọi thơ ông là thơ điên. Thật ra cái giọng điên chỉ có ở giai đoạn sau, giai đoạn đầu thơ ông trong trẻo lắm” (Vũ Quần Phương). Tôi lại nghĩ khác. Nếu người ta gọi cái trạng thái không bình thường của người làm thơ khi cầm bút viết ra thơ, cái trạng thái đã theo suốt cuộc đời làm thơ của Hàn Mặc Tử, là điên, thì thơ Hàn Mặc Tử “điên toàn triệt”, điên từ đầu chí cuối. Còn nếu người ta gọi những dòng thơ bất thường viết ra trong trạng thái không bình thường của Hàn là những dòng thơ của sự tỉnh ngộ, thì thơ Hàn Mặc Tử “tỉnh toàn triệt”. Cũng như vậy, nếu người ta biết tâm hồn nhà thơ ấy trong trẻo đến bậc nào, thánh thiện đến bậc nào, thì người ta sẽ đọc được ngay trong những bài thơ gọi là “điên” nhất của Hàn Mặc Tử, một sự “trong trẻo toàn triệt”. Thơ Hàn Mặc Tử tỉnh táo đến tận cùng, mà ai cũng biết, đi tới tận cùng tỉnh táo người ta sẽ gặp điên loạn. Nếu theo cái thước ấy mà đo, thì bất cứ thơ của ai, miễn là thơ “thứ thiệt”, đều có thể rất điên và cũng đều rất tỉnh.

Và dẫu thơ ấy sục vào tận những hang cùng ngõ hẻm của vô thức, vào chỗ tối tăm bùn lầy nước đọng của hạ ý thức, thì khi thành thơ, thơ ấy vẫn vô cùng trong trẻo. Bởi thơ từ xưa tới giờ luôn là kinh cầu nguyện của tâm hồn con người, nơi con người có thể sám hối, có thể khắc khoải, có thể khao khát và công khai bày tỏ những khát khao thầm kín nhất, nơi bất cứ một ánh nhìn nào cũng đều được “trong trẻo hoá”, đều thăng hoa, hướng thượng: “Ống quần vo xắn lên đầu gối / Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mình”, có phải là một câu thơ “sex”? Nhưng tôi đố ai đọc câu thơ ấy mà lại nghĩ đến điều dung tục, mặc dù câu thơ đầy cảm giác xác thịt. Đó có lẽ là bí quyết của thơ, bí mật của loại hình nghệ thuật vào loại lâu đời nhất của nhân loại này. Thơ luôn là thánh đường dành cho một người, cho từng người một.

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.
Đã bao giờ ai thấy trăng “nằm” trong tư thế bất thường như thế chưa? Hàn thi sĩ đã thấy, và cái nhìn bất thường ấy đã tạo ra câu thơ bất thường, bất hủ.
Tận cùng của niềm tin và siêu thực
Thơ Hàn Mặc Tử là thơ đi tới tận cùng, trong niềm tin, trong khao khát, trong tuyệt vọng. Chính bệnh phong là hòn đá, chứ không phải giọt nước, làm trào cái “ly thơ” ấy. Chỉ sống trên cõi đời được 28 năm, chỉ thực sự làm thơ khoảng mười năm, nhưng đó là mười năm dồn nén để trào thơ, theo kiểu những đĩa nén vi tính bây giờ có thể dung chứa gấp trăm lần một đĩa thường, mười năm thơ của Hàn đủ cho hậu thế đọc thơ ông suốt trăm năm và lâu hơn nữa.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
là một câu thơ trăng đẹp nhưng cũng có người khác có thể làm được, nhưng
Cả miệng ta trăng là trăng
thì chẳng biết có ai làm được không, ngoài Hàn thi sĩ? Và đây nữa:
Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai
thì lạ quá! Lạ không chỉ vì đây là câu thơ siêu thực, lạ vì nó siêu thực một cách rất... hiện thực. Đừng tưởng siêu thực là phản hiện thực, lạ vì nó siêu thực một cách rất... hiện thực. Đừng tưởng siêu thực là phản hiện thực, là chối bỏ hiện thực. Siêu thực là hiện thực ở dạng “đĩa nén”, hiện thực ở mức lạ thường. Có điều, những bài thơ cuối đời của Hàn Mặc Tử, càng siêu thực thì lại càng đau đớn, một nỗi đau sờ thấy, cảm thấy được, đau cùng được. Và siêu thực thì lại càng tin tưởng, tin tưởng trong tuyệt vọng. Đó là thơ của vô vàn những nghịch lý mà con người hiểu được, cảm được, chia sẻ được. Một người bị bệnh phong, cô đơn đến tột cùng, đau đớn đến tột cùng, sự sống chỉ còn tính bằng ngày bằng tháng, đã làm thơ chỉ cho mình, dù trước đó ông đã là nhà thơ nổi tiếng. Không ai muốn có bi kịch như thế, phải sống trong bi kịch như thế để làm thơ hay, có thơ để đời, hay hy vọng vào sự bất tử sau khi mình chết. Nhưng khi đã lâm vào hoàn cảnh ấy rồi, nhất là khi đã được thiên phú để làm thi sĩ, Hàn Mặc Tử không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cho “xuất”, cho “thoát” ra khỏi người mình những bài thơ tuyệt tác, những câu thơ tuyệt vọng, những miếng thơ tuyệt vời đẫm máu.
Ai đi lẳng lặng trên làn nước
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi?
Mà sao ngậm kín thơ đầy miệng
Không nói không rằng nín cả hơi
(Cô liêu)
Cuộc song hành của thơ và trăng

Có ai từng cô liêu như thế chưa, cô liêu đến mức phân thân, đến mức thấy cái “double ego”, cái bản ngã thứ hai của mình đi lại, ngồi sát bên mình, miệng ngậm đầy... thơ? Với Hàn Mặc Tử thơ với trăng mang tính chất kép, là một hoá hai, là hai trong một, không chỉ trăng tác động đến thơ ông, mà dường như chính thơ ông cũng tác động rất nhiều đến trăng, khiến trăng đột nhiên lạ đi, kỳ ảo hơn, ma quái hơn nhưng cũng gần với con người hơn, biết chia sẻ, biết đồng cảm hơn. Sinh giữa mùa trăng, Chơi giữa mùa trăng, thơ giữa mùa trăng, và đây mới là điều kỳ dị, kỳ dị đến ghê người, là khi chết, Hàn cũng chết giữa mùa trăng. Hàn Mặc Tử qua đời ngày 11-11-1940. Nếu tính sang âm lịch, trời ơi, bạn có tin không, ông mất đúng vào ngày 12 tháng 10 năm Canh Thìn! Sinh vào đêm trăng mười hai tháng trung thu, và mất vào đêm trăng mười hai tháng mười, tháng mưa sùi sụt ở Quy Nhơn, có thể trước đây phút cuối cùng nhắm mắt, Hàn thi sĩ còn chợt thấy, bất ngờ hiện qua mây đen, qua màn mưa một vầng trăng chưa tròn, cái vầng trăng mười hai đầy khao khát...


Thanh Thảo

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Ba đỉnh cao Thơ Mới: Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử, Kỳ 8: Hàn Mặc Tử - chàng thi sĩ khao khát cái Tột cùng

1. Một tiếng thơ bí ẩn, một đời thơ bất hạnh

Như những người chinh phục dấn thân vào xứ sở đầy bí ẩn và bí hiểm, những người nghiên cứu Thơ Mới cứ mải miết miệt mài, bất chấp mọi thời khí khắc nghiệt nhất. Và họ đã được đền bù. Những đỉnh cao nhất của Phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) cứ dần dần được chinh phục. Cả những ngọn núi mà đỉnh chóp vốn chìm khuất trong mây mù cũng đang được khai quang. Những bí mật ngủ vùi trong thời gian đang được đánh thức dậy... Nhưng Hàn Mặc Tử hẳn phải là trái núi bướng bỉnh nhất. Nó mời gọi những bước chân chinh phục để rồi làm tất cả mỏi gối chồn chân. Nó chỉ chịu để cho một ít người kiên nhẫn đến được với dăm ba tảng đá lăn lóc ven chân núi, hoặc một vài vỉa đá lưng chừng núi, thế thôi. Nửa thế kỉ đã qua dường vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt! Chế Lan Viên - bạn thơ thân cận của Hàn - là người đến sớm nhất, cố gắng leo cao, đào sâu nhất, từng lớn tiếng quả quyết: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, những cái tầm thường mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại ở cái thời kì này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử” [1], nhưng cuối đời, Chế vẫn cứ ôm theo nguyên vẹn một câu hỏi đầy trăn trở: Hàn Mặc Tử, anh là ai? [2]. Thơ Hàn Mặc Tử vẫn cứ như một kí tự lạ lùng mà mỗi cách đọc, cách giải được đưa ra chỉ xem như một giả thuyết không ít vu vơ. Nội điều ấy đủ thấy Hàn là một thiên tài cô đơn biết bao.

Cuộc đời và thân phận thơ Hàn Mặc Tử gắn chặt chẽ với dải đất miền Trung khắc nghiệt, đói nghèo và rất nhiều thi sĩ. Sinh quán: thị xã Đồng Hới - giữa miền Trung. Nguyên quán: Thanh Hoá - bắc miền Trung. Thời thơ ấu và niên thiếu nằm trọn vẹn trong hành trình chuyển dịch dần vào Thừa Thiên, Quảng Ngãi, Bình Định... Học tiểu học ở Huế, trung học ở Qui Nhơn... Ngoài một khoảng thời gian ngắn ngủi vào làm báo viết văn ở Sài gòn, tạt về Phan Thiết theo một mối tình ngắn mà để lại nỗi đau dài, còn thì phần lớn cuộc đời của thi sĩ xấu số ấy đều quẩn quanh với cái mảnh đất nằm chính giữa khúc ruột miền Trung có thành Đồ Bàn hoang liêu và những tháp Chàm bí ẩn cùng với biển khơi vừa nồng nã mặn mòi vừa nhởn nhơ vô tâm ấy. Ngày 22-9-1912, khi chào đón đứa con thứ tư của mình ra đời, hẳn người cha công chức và người mẹ ngoan đạo của miền Trung ấy không thể tiên liệu được rằng Nguyễn Trọng Trí sau này sẽ thành thi sĩ Hàn Mặc Tử lừng danh, người sẽ “cai trị Trường thơ Loạn” của các nhà thơ Bình Định và đẩy Thơ Mới đến một bờ bến lạ. Và khi làm lễ rửa tội, rồi lấy tên thánh Phanxicô đặt cho đứa hài nhi Nguyễn Trọng Trí, hẳn cha xứ thuộc giáo xứ Tam Toà của thị xã miền Trung kia cũng không thể tiên cảm được mai này hài nhi ấy sẽ thành “thi sĩ của đạo quân thánh giá” với tiếng “thơ cầu nguyện” kì dị, và càng không thể hình dung được tiếng thơ của nó cất lên từ Qui nhơn một dẻo đất ven biển miền Trung sẽ siêu vượt ra ngoài đạo giới Kitô. Mà điều không một ai có thể ngờ nhất vẫn là: tại sao căn bệnh phong quái ác lại chọn đúng thi sĩ ấy để giáng hoạ và rồi cướp đi một tài năng lớn vào cái tuổi 28. Ngày 11-11-1940, Hàn Mặc Tử tạ thế, kết thúc một cuộc đời đầy đau thương bất hạnh tại trại phong Qui Hoà. Lại cũng là một trong những bãi biển êm đềm vào bậc nhất của miền Trung.

Là miền đất của những đối cực, miền Trung đã hoài thai nên Hàn Mặc Tử. Trời xanh và Cát trắng. Tươi đẹp và Khổ nghèo. Thanh cao và Dữ dội. Ngọt bùi và Đắng cay. Tài hoa và Bất hạnh... Những đối cực miền Trung đã va xiết theo một qui luật huyền bí nào đó mà nhào nặn nên một cốt cách thơ. Những đối cực miền Trung đã giao ứng nhau mà thăng hoa một hồn thơ. Và phải chăng, sự tương sinh tương khắc khôn lường giữa chúng đã tạo nên cặp đối cực cuối cùng: Đau thương và Sáng tạo? rồi chính cuộc hôn phối thống khổ mà màu nhiệm của hai lực sinh thành sau chót này đã làm nảy sinh thi tài lạ lùng Hàn Mặc Tử?

Sống miền Trung, chết miền Trung. Đau thương ở miền Trung, Sáng tạo tại miền Trung. Nằm trọn trong khúc ruột dằng dặc miền Trung, phải chăng là số kiếp tiền định của Hàn Mặc Tử?

2. Một quan niệm khác lạ, một chí hướng phi thường

Không chỉ biết ném mình vào cuộc sáng tạo triền miên mài miệt, Hàn Mặc Tử còn luôn luôn trăn trở về con đường nghệ thuật của chính mình. Nhiều nghiền ngẫm đã được phát biểu thành những tuyên ngôn. Bởi thế, người đọc Hàn có thể thấy hành trình sáng tạo của thi sĩ này đã được hướng đạo bởi chiếc kim la bàn nào. Tôi muốn nói, Hàn Mặc Tử có cả một hệ thống quan niệm nghệ thuật luôn dẫn dắt mỗi bước đường nghệ thuật của ông.

“Nguyện suốt đời đi tìm sự lạ”, đó là chí hướng bao trùm của Hàn Mặc Tử khi dấn thân vào con đường nghệ thuật. Chí hướng này được bộc lộ trong bài Nghệ thuật là gì?. Chí hướng như một động lực ngầm ẩn mà kiên trinh ấy cứ khiến Tử suốt đời mải miết đi theo “tiếng gọi ở chốn xa xăm, thiêng liêng và huyền bí làm rung động cõi lòng” [3]. Suốt đời cứ nhất định đòi “hưởng Cái Thơ trên Cái Thơ khác nữa”, nghĩa là tìm đến thứ thơ cao siêu hơn hết thảy - thứ thơ tuyệt đối. Và suốt đời quyết đi đến “cõi ước mơ hoàn toàn” [4], nghĩa là một cõi giới cao hơn hết thảy - cõi giới lí tưởng, tuyệt đối. Mà bao trùm lên tất cả, chí hướng ấy đã quyết định quan niệm của Hàn về người thi sĩ: “thi sĩ là người khát khao vô tận” [5], khao khát Tột cùng. Như thế, đối với Hàn Mặc Tử, từ trong bản nguyên, một thi sĩ chân chính phải là: thứ nhất, kẻ mang trong mình niềm khát khao vô giới hạn; thứ hai, người say mê cái lạ, săn tìm cái lạ. Tựu trung, cả hai đều hướng tới cái Tột cùng.

Sau này, Hàn Mặc Tử sẽ liên tục hoàn chỉnh quan niệm của mình về cả Thơ, Người thơ, và Việc làm thơ với nhiều khía cạnh khác lạ hoàn toàn so với đương thời, như: Thơ “là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt.”, “thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt”, Người làm thơ là “người khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo”, “Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực ngon ngọt mĩ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ”, Việc làm thơ là “Tôi làm thơ?/ - Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng.” “Tôi làm thơ? / - Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. / Và cũng nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. / Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào tiếng rú. Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi!”. Nhưng, những chí hướng và khao khát lớn nói trên kia chính là cái lõi cốt chi phối mọi khía cạnh quan niệm cụ thể này. Chí hướng ấy cũng là động lực sâu xa nhất của hành trình sáng tạo Hàn Mặc Tử. Theo một cái nhìn nào đó - của giới nghiên cứu Mácxit thô sơ chẳng, thì quan niệm của Hàn có phần nghiêng về nghệ thuật vị nghệ thuật, lối phát biểu có phần nào mang màu sắc thần bí. Tuy vậy, cũng cần thấy rằng, nếu toàn bộ sáng tạo của Hàn Mặc Tử đã được nhìn nhận như sự nghiệp mang tầm cỡ một thiên tài, thì thi nghiệp ấy đã được xây dựng dựa trên chính hệ thống quan niệm như thế.

Và Hàn Mặc Tử là hình ảnh chuẩn nhất cho cái mẫu thi sĩ như quan niệm của ông. Suốt đời mình, Hàn Mặc Tử luôn săn tìm cái lạ.

3. Một hành trình sáng tạo vừa tiếp nối vừa đan xen

Trong thực tế sáng tạo, có nhiều người đã chín từ những tác phẩm đầu tiên. Các sáng tác về sau chỉ là sự nối dài, sự tô đậm của những gì đã có. Lại có những nghệ sĩ không ngừng khám phá chính mình một cách say sưa. Mỗi một nghệ phẩm mới lại là một phát hiện khác hẳn về bản thân mình. Hành trình sáng tạo của họ là cuộc phiêu lưu đầy hứng thú để tìm kiếm và phát hiện ra những miền mới, những bình diện mới tiềm ẩn trong mình. Điều ấy đồng nghĩa với một sức sáng tạo dồi dào khoẻ khoắn. Hàn Mặc Tử thuộc trường hợp thứ hai này. Tiến trình thơ Hàn Mặc Tử có thể xem là sự thu nhỏ toàn bộ hành trình cách tân của Thơ Mới đương thời. Khởi đầu sự nghiệp thi ca khi còn rất nhỏ với thơ Đường luật Cổ điển (sau khi ông mất, toàn bộ phần thơ Đường này mới in thành Lệ Thanh thi tập), nghĩa là sáng tạo thuộc phạm trù thơ cũ. Rồi nhanh chóng chuyển sang Thơ Mới. Hành trình mới này bắt đầu bằng Lãng mạn với Gái quê (1936) [lối Lãng mạn này vẫn còn những hồi quang của nó ở chặng sau trong hai thi phẩm thuộc thể loại khác của Hàn là kịch thơ [i]Duyên kì ngộ[/i] (1939) và Quần tiên hội (1940)]. Sau đó cuộc kiếm tìm đã bước hẳn sang chặng khác: tích hợp nhiều yếu tố Tượng trưng và Siêu thực để tạo ra một loại hình thơ hết sức độc đáo là Thơ điên. Lối thơ lạ đó kết tinh chủ yếu trong tập Đau thương (1938). Rồi ngay sau đó các yếu tố Cổ điển, Lãng mạn, Tượng trưng và Siêu thực lại pha trộn với nhiều yếu tố Tôn giáo mà tạo nên các tập Xuân như ý, Thượng thanh khíCẩm châu duyên (1939). Không có một chí hướng kiên định, không có một nội lực mạnh mẽ, hẳn Hàn Mặc Tử không thể miên man săn tìm cái mới lạ cho nghệ thuật của mình, không thể liên tục bứt phá để thường xuyên vượt mình như thế được.

Thực ra, quá trình tìm mình không phải là những bước cóc nhảy hoàn toàn phân liệt với nhau. Trái lại, những tiếng thơ trong đời một thi sĩ vẫn có một mối liên hệ bí mật nào đó đối với nhau. Nói cách khác, phải có những yếu tố ổn định nào đó nằm sâu bên trong để xâu chuỗi các chặng đường khác nhau thành một mạch tự nhiên và thành một chỉnh thể. ở Hàn Mặc Tử, yếu tố đó trước hết là một điệu cảm xúc riêng, điệu tâm hồn riêng, vừa đa dạng vừa nhất quán. Cảm xúc thiết tha đến đau thương tuyệt vọng là một nét rất riêng của hồn thơ Hàn Mặc Tử. ở chặng này nó còn là nỗi bi thiết có phần nào ước lệ, ở chặng sau nó đã thành nỗi giằng xé tuyệt vọng chân thực rồi. Nhưng có lẽ ngay cả những nhà phê bình giàu tiên tri nhất khi đọc những câu Đường luật được xem là xuất sáo như: “Tình thu bi thiết lắm thu ơi / Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt...” hay “Nằm gắng cũng không thành mộng được/ Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi” (thời Lệ Thanh thi tập) cũng khó mà dự cảm được nỗi bi thiết đó chính là một chồi mầm lạ đang xé rách cái vỏ hạt Cổ điển để rồi đây sẽ mọc thành nỗi Đau thương khôn cùng khi được gieo trồng trên mảnh đất Lãng mạn, Tượng trưng, Siêu thực. Có thể xa hơn một chút, qua quãng Đường luật, ngay khi đã gặp hình bóng cái Tôi thi sĩ ở Gái quê trong dáng vóc một Tình nhân mãnh liệt mà nhút nhát, đầy khao khát dục tình nhưng cũng đầy mặc cảm tiết chế, hẳn là chưa người đọc nào - kể cả những bạn thơ thân cận của thi sĩ - có thể hình dung một mai, khi hiện hình đầy đặn nhất, nó sẽ là cái Tôi đau thương. ấy thế mà những đổi thay khó hình dung ấy đã diễn ra thành hành trình thơ Hàn Mặc Tử.

Hãy nhìn vào thế giới hình tượng để thấy kĩ hơn rằng Hàn Mặc Tử không ngừng đổi mới bản thân, sáng tạo của ông dường như không biết đến điểm dừng. Trong Lệ Thanh thi tập, hình tượng cái Tôi Hàn Mặc Tử vẫn còn là cái Tôi mang dáng dấp trượng phu khá tiêu biểu cho thời trung đại. Thức khuya, rồi Đêm khuya tự tình với sông Hương, Chùa hoang... đều là hình ảnh một Cái Tôi đối mặt với thời cuộc, với lối bóng gió ước lệ, mang tâm sự nước non, cảm khái thời thế, kiểu con người vũ trụ. Thiên nhiên ở đó chỉ đơn thuần là hiện thân của giang sơn. Sang Gái quê thì cái tôi Cổ điển đã nhường chỗ cho cái tôi Lãng mạn. Nó hiện ra trong hình ảnh một chàng trai khí huyết mà khao khát yêu đương thường cháy bỏng, thậm chí luôn rạo rực dục tình. Thiên nhiên - giang sơn, cũng nhường chỗ cho thiên nhiên - vườn tình, mỗi một lùm cây, bãi cỏ, dòng nước, triền đồi, khóm nhà... đều hiện ra như những tiểu cảnh Đào nguyên, nơi nảy nở duyên tình và hẹn hò tình tự. Thơ Hàn Mặc Tử khi bước sang Đau thương đã có một diện mạo khác hẳn. Cái Tôi khao khát ái tình đắm mình trong nhục cảm tưởng tượng đã chuyển thành cái Tôi Đau thương, mang trong mình những giằng xé dằn vặt về thân phận. Nó vừa khắc khoải yêu đời vừa hoài nghi số kiếp. Cái Tôi nguyên phiến bị phá vỡ thành nhiều mảnh với các thực thể phản trái nhau: xác - hồn - máu - thơ... Và thiên nhiên ở đây cũng bị phá vỡ thành những mảng đối chọi tương phản gay gắt: thiên đường trần gian, địa ngục trần giới, ngoài kia thắm tươi, trong này u ám, thiên giới, trời sâu... Còn khi đến Xuân như ýThượng thanh khí, thì cái Tôi đau thương cơ chừng đã thành cái Tôi giải thoát. Nó tìm tới một thế giới huyễn tưởng hoàn toàn mà thi sĩ đã gọi là Thế giới Huyền diệu. Đó là cõi thiên đường của hồn thơ (chứ không hẳn là thiên đường của đức tin). Gương mặt thiên nhiên trần giới không còn sinh sắc trần gian, mà tất cả cỏ cây cảnh vật đều bị hư huyền bởi loá sáng trong ánh dương quang huyền nhiệm của một cõi trời cách biệt: trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm / mà mặt trời kia tợ khối vàng / có chàng trai mới in như ngọc / Gió căng hơi và nhạc lên ngàn... Buổi ấy càn khôn chưa dựng lên / Mùa thơ chưa gặt tốt tươi thêm / Người thơ phong vận như thơ ấy / Nào đã ra đời ngọc biết tên... Lời thơ ta sáng trưng như thất bảo... Vạn tuế bay ơi nắng rợp trời...

Nhìn vào một thế giới hình tượng, nếu chỉ dừng ở hình tượng cái Tôi và Diện mạo tổng quát của thế giới qua các trang thơ của thi sĩ không thôi, thì chưa đủ. Mà còn cần phải nhìn sâu vào một hệ thống hình ảnh, hình tượng tiêu biểu nào đó nữa, mới có thể thấy sự vận động ở bề sâu và ở tính sinh động của nó.

Trường hợp Hàn Mặc Tử, có lẽ chỉ cần xem xét sự vận động của hình ảnh trăng qua các chặng đường thơ.

Cùng với mạch vận động của “bút danh”, là biến động của hình ảnh trăng. Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mạc Tử tất có ngày sẽ thành Hàn Mặc Tử một khi Đau Thương ập đến với thi sĩ (hay thi sĩ đến với Đau Thương?). Hành trình tất yếu của đường thơ Tử lưu lại dấu vết trong những mảnh trăng. Ở quãng Lệ Thanh thi tập, cảm xúc kì dị của Hàn Mặc Tử có lẽ đã lấp loé trong bóng trăng rợn người này: “Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối - Gió thu lọt cửa cọ mài chăn” hay “Mở cửa nhìn trăng trăng tái mặt”. Sang đến chặng Gái quê, vẻ kì dị kia càng trở nên ma quái hơn: “Trăng nằm sóng soài trên cành liễu / Đợi gió đông về để lả lơi” hay “Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm / Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”. Nhưng dầu sao, ở hai chặng này, trăng mới chỉ mang trong nó cái cô đơn và niềm háo hức dục tình thôi. Phải từ bước ngoặt Thơ điên trở đi, mặt nguyệt nguyên phiến lộng lẫy và “thơm như tình ái của ni cô” kia mới bị niềm Đau thương làm cho tan vỡ: “Hôm nay có một nửa trăng thôi / Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi”, để từ đây, những mảnh trăng chết chóc như những mảnh vỡ của sự tiêu tán huỷ diệt sẽ lan tràn ngự trị trong thơ Hàn. Những trăng sấp mặt, trăng ngã ngửa, trăng tự tử, trăng tiêu tán, trăng ứa máu, trăng loạn... cùng với bao mảnh vỡ của một xác thân như hồn, máu, trộn lẫn với những nhạc, hương, châu, lệ... để tạo ra một thế giới ràng rịt và bấn loạn. Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa / Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô / Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy / Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra. Ấy là thế giới Đau thương, thế giới Thơ điên.

Như thế, hành trình thơ Hàn Mặc Tử là hành trình đi tới đau thương như một định mệnh (chữ đau thương này không chỉ riêng tập thơ Đau thương). Tại đó, bất hạnh của Hàn lên đến cực điểm và sáng tạo của ông cũng lên đến cực điểm. Cả hai chuyển hoá lẫn nhau. Đâu phải ngẫu nhiên phần chói sáng nhất của thi nghiệp ấy, Hàn Mặc Tử đã viết trong Đau thương và viết bằng Đau thương. Đau thương là dạng thức và cũng là cung bậc tột cùng của xúc cảm thi nhân. Đây cũng là phần bấn loạn nhất, gây tranh luận nhiều nhất. Đau thương đến với ông không chỉ từ một nguồn là bạo bệnh, mà còn từ những cuộc tình bất hạnh lê thê. Có thể kể đến những cái tên như Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương, Thanh Huy, Thu Yến, Mĩ Thiện, Thương Thương... Mỗi cái tên ấy là một nguồn tình, một nguồn thơ nhưng cũng là một nguồn đau. Đau Thương còn đến với ông từ chính cái tạng tâm hồn quá nhạy cảm với thương đau, hẫng hụt. Nghĩa là ở ông luôn thường trực một cảm xúc tuyệt vọng. Bởi thế, trùm lên cả những đau đớn thân xác là đau khổ tinh thần, là nỗi đau thương buốt lòng, rách xé. Tất cả những thứ ấy đã chọn Hàn Mặc Tử như một định mệnh oái oăm. Chúng vào hùa với nhau nhào nặn nên số phận đầy thảm sử của Hàn Mặc Tử. Nó là cái giá máu mà Tử đã phải trả cho mỗi câu thơ của mình. Thơ, với Hàn Mặc Tử, thực là sự lên tiếng của thân phận.

Vậy là, Đau thương như một ác thần tàn huỷ phũ phàng, Thi ca lại như một nỗ lực chống trả và hoá giải. Truy đuổi và tàn huỷ Hàn trên từng bước đời, Đau thương chính là hiện thân của Thần Huỷ diệt. Ngay cả lúc tuyệt vọng nhất vẫn thiết tha mãnh liệt, Lòng yêu sống lại là Thần Sáng tạo. Ở điểm tột cùng của sự huỷ diệt, ta thấy mọc lên những sáng tạo. Về cuối đời, Đau thương và Sáng tạo được hiện lên khá đậm nét ở cuộc vật lộn quằn quại đến rách xé giữa thân xác bệnh hoạn và linh hồn thanh khiết. Có thể coi thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ Sự Huỷ diệt để hướng về Sự Sống. “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi / Bao giờ tôi hết được yêu vì / Bao giờ mặt nhật tan thành máu / Mà khối lòng tôi cứng tợ si (...) Tôi đang còn đây hay ở đâu / Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu / Sao bông phượng nở trong màu huyết / Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu”. Thơ Hàn Mặc Tử là giọt châu sinh thành từ huyết lệ của sự huỷ hoại đó. Thơ vừa như một sáng tạo vừa như một giải thoát. Sáng tạo bên miệng vực của nỗi chết, có thể nói Hàn Mặc Tử là cái hình ảnh tột cùng của một nghệ sĩ.

Cứ thế, Bệnh tật đoạ đày một kiếp sống, Thơ ca lưu đày một đời sáng tạo. Tử là một kẻ chung thân với thơ. Tử đã chết cho từng câu thơ, chết vào từng câu thơ của mình. Đúng là những gì phải diễn ra thì đã diễn ra như một định mệnh bất khả kháng.

4. Nhà thơ tôn giáo hay tôn giáo của nhà thơ

Đọc Hàn Mặc Tử, người ta “vấp” ngay phải vấn đề Tôn Giáo. Đây đúng là một nút quan trọng trong cấu trúc tinh thần phức tạp của hồn thơ này. Không ít người khi thấy trong các tập thơ Hàn xuất hiện nhiều yếu tố Phật giáo, Đạo giáo đã cho rằng: thơ Hàn thực chất là thuộc về các tôn giáo ấy. Rồi, bám vào cái lí lịch Công giáo và những thi liệu Kitô rậm rịt của Hàn Mặc Tử, một phần rất đông người nghiên cứu lại đã mặc nhiên coi tôn giáo ở thơ Hàn là Kitô giáo. Người thì cho nó thuộc phạm trù tình cảm, đức tin, phạm trù tư duy, người thì coi toàn bộ thơ ông là tiếng vọng của Thánh Tự, người lại coi hành trình Hàn Mặc Tử là từ một người Công giáo làm thơ đến nhà thơ Công giáo... Người này nghiêng về phía tìm kiếm một tôn giáo thuần tuý, người kia coi là sự tích hợp nhiều tôn giáo khác nhau... Dù rộng hay hẹp, các ý kiến kia đều thuộc về một quan niệm tôn giáo quen thuộc nào đó: loại quan niệm thừa nhận có tồn tại một thế giới siêu nhiên, trong đó có thần thánh, ma quỉ, có tồn tại một sự sống sau cái chết ở một thế giới khác siêu việt hơn. Nghĩa là vẫn chọn chỗ đứng của một trong những tôn giáo hiện hành với hệ thống giáo lí, giáo hội, giáo chủ và các thiết chế thực tiễn của nó.

Phải chăng Hàn Mặc Tử là mẫu thi sĩ cất lên những tiếng lòng của một kẻ ngoan đạo? Nói khác đi, phải chăng Hàn Mặc Tử chỉ là một thi sĩ của tôn giáo? Là một người Kitô suốt đời làm thơ cho tôn giáo của mình? Sự thực, không đơn giản như thế.

Là một con chiên Thiên chúa giáo, Hàn Mặc Tử không thể không mang vào thơ mình ít nhiều quan niệm của tôn giáo đó. Không thể phủ nhận được thực tế: chúng ta gặp khá đậm đặc các chất liệu của Kitô giáo - từ ngôn ngữ đến nghi thức lời nói, từ hình ảnh đến một số biểu tượng phổ biến trong Kinh thánh, từ Đức bà Maria đến Đấng chí tôn. Nhưng xem ra Kitô giáo không nắm vai trò độc tôn. Rõ ràng các chất liệu Kitô giáo đan xen, chen vai thích cánh với cả yếu tố Phật giáo, Đạo giáo. Chẳng thế mà, Quách Tấn đã dành hẳn một bài luận về Phật giáo và Đạo giáo trong thơ Hàn.

Thế thì, phải chăng Tôn Giáo trong thơ Tử đã tồn tại như một hỗn dung kiểu “tam giáo đồng nguyên”? Không phải. Đó không giống dạng thức chung sống hoà bình của ba tôn giáo trong một ý thức trữ tình. Cũng không phải hoà đồng theo kiểu “nhất nguyên” hoá để làm thành một tôn giáo vũ trụ như ai đó vội khẳng định. Mà nhìn kĩ có thể thấy, các tôn giáo ấy đều bình đẳng với nhau trong thơ Hàn bởi chúng đều chỉ được dùng như những hệ thống chất liệu để biểu đạt một ý niệm tôn giáo hoàn toàn khác: tôn giáo lãng mạn.

Tức là tôn giáo kiểu nghệ sĩ. Khi những điều hằng khát khao, tôn thờ, phụng hiến được người nghệ sĩ đẩy lên đến tột cùng, đem đến cho nó một vẻ huyền nhiệm, khi ấy nó trở thành tôn giáo. Ví như, Tình yêu không phải là một tôn giáo, nhưng nó đã trở thành tôn giáo của Xuân Diệu. Hay Cái Đẹp không phải là tôn giáo, nhưng nó cũng đã trở thành tôn giáo của Nguyễn Tuân... Tôn giáo của Hàn Mặc Tử về căn bản thuộc kiểu ấy (cố nhiên, nó phức tạp bội phần). Tức là Tôn giáo được xem như nhu cầu hướng tới cái tuyệt đối, hướng tới các giá trị tột cùng với những lẽ huyền nhiệm của nó: “Tôn giáo là cái quan tâm của loài người đối với cái Tột cùng”, như “một loại giải thích về ý nghĩa tột cùng của đời sống” [6]. Đây là dạng tôn giáo tồn tại một cách chủ quan phụ thuộc hoàn toàn vào cá tính của chủ thể chứ không phải tôn giáo khách quan tồn tại như một thực thể với những thiết chế xã hội của nó. Đối với người nghệ sĩ, tôn giáo ấy chỉ tồn tại trong nghệ thuật và bằng nghệ thuật mà thôi.

Có thể hình ảnh về một cõi giới khác được vẽ ra trong thơ Tử cũng giông giống với những cảnh giới về Thiên đường hay Thế giới Cực lạc trong Kinh thánh hoặc Kinh Adiđà, nhưng cái ý niệm tôn giáo mà thi sĩ đưa vào đằng sau những cảnh giới ấy thì đã là ý niệm khác hẳn. Có thể thấy, Hàn Mặc Tử đã cố ý trình bày quan niệm này một cách không giấu giếm. Viết tựa cho tập Tinh huyết, xem xét hành trình thi ca của thi sĩ thần linh Bích Khê, Hàn tuyên bố: “thơ chàng sắp bay sang thế giới huyền bí để đi đến chỗ tuyệt đích là: Tôn giáo” [7]. Đáng nói là bên dưới chữ “tôn giáo” đây, Tử còn tự chua thêm là “cần hiểu chữ ấy với tất cả tinh thần của nó”. Tức: không nên cột nó vào một nghĩa hẹp thông thường. Rõ ràng, Tôn giáo theo Tử là địa hạt của cái tuyệt đích, là cõi Tột cùng với những huyền nhiệm của nó. Theo Hàn Mặc Tử, tôn giáo với nghĩa ấy chính là cái cõi bờ mà một thi sĩ chân chính rồi sẽ phải tìm đến như một điều tất yếu. Đó là cõi giới đáp ứng được cả quan niệm nhân sinh của một con người lãng mạn về hạnh phúc, cả quan niệm thẩm mĩ của nghệ sĩ lãng mạn về cái đẹp. Đến được chốn ấy là cõi cực lạc, đến được chốn ấy cũng là đến với cõi đẹp. Như thế, có thể thấy trong Hàn Mặc Tử, ý thức Thiên chúa giáo đã tự nguyện tan thấm vào một quan niệm tôn giáo khác, bao trùm hơn. Quan niệm này, một mặt: là hệ qui chiếu đóng vai trò đồng hoá các yếu tố tôn giáo khác nhau vốn ràng rịt trong thơ Hàn vào một ý niệm chung nhất, mặt khác: cũng đồng hoá cả chính tôn giáo với thi ca.

Thơ, đó mới thực sự là Tôn giáo của Hàn Mặc Tử. (Tất nhiên, phải là Thơ với nghĩa tuyệt đối của nó và với những gì huyền nhiệm nhất của nó). Hàn Mặc Tử đã tuyệt đối hoá thơ, đã tôn sùng thơ, đã tô vẽ thơ như một nguồn sống, nguồn sáng, nguồn đạo hạnh, thơ là ánh sáng thiêng liêng, thần diệu tột cùng “Thơ trắng trong như một khối băng tâm / Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu”, “Lời thơ ta sáng trưng như thất bảo / ý tứ ta chói sáng như sao sa”, “Trên lụa sáng mười hai hàng chữ ngọc / Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa”... Thơ, ánh sáng, thiên ân, tất cả đã hoà vào nhau, thậm chí đồng thể. Đó là tam vị nhất thể của Thượng đế riêng của thi sĩ này. Thơ Tử là sự ca tụng ánh sáng thuần linh với tất cả những dạng biểu hiện vừa thống nhất vừa đầy xung đột của nó. Bởi không gì giản đơn như ánh sáng, cũng không gì huyền nhiệm hơn ánh sáng. Thơ là phương cách giải thoát, là hình thái thăng hoa của thi sĩ. Thơ là lời nguyện cầu cứu chuộc, thơ cũng là hi vọng cứu rỗi. Thơ là vẻ đẹp, thơ cũng là vẻ thiêng. Hàn đã sống cho thơ và Hàn cũng chết cho thơ. Đối với Hàn Mặc Tử, thơ thực sự là một lẽ huyền nhiệm tột cùng của tồn tại, của sáng tạo và của giải thoát. Khao khát cái Tột cùng, do đó, vừa là Quan niệm Mĩ học vừa là Tín niệm Tôn giáo. Hiểu như thế, ta mới giải thích được vì sao Tử lại có những ý tưởng đồng nhất các tôn giáo khác nhau về cùng một mối, đồng thời có không ít ý thơ cho thấy thi sĩ cứ muốn “chơi trội”, muốn “qua mặt” cả Thượng đế mà nếu ở một con chiên ngoan đạo độc tôn Thiên chúa của mình sẽ là một sự phạm thượng khó tha thứ (Nở một lượt giàu sang hơn Thượng đế).

Nhìn sâu vào cơ chế tinh thần của Hàn Mặc Tử có thể lí giải được sự hoà nhập giữa hai yếu tố thi ca và tôn giáo này. Trong cấu trúc tinh thần của những thi sĩ như Hàn Mặc Tử luôn tồn tại hai con người: con người thi ca và con người tôn giáo. Có thể nói niềm khao khát những giá trị Tột cùng và huyền nhiệm chính là chỗ chuyển hoá, đồng hoá, thậm chí đồng thể của hai con người đó. Trong khi Khát vọng sáng tạo muốn tìm đến “Cái thơ trên Cái thơ khác nữa” - tức là thứ thơ Tột cùng, thì Tín ngưỡng tôn giáo muốn tìm đến cõi “Xuất Thế gian” - tức là cõi giới Tột cùng. Cả hai giá trị tột cùng đó đã nhập vào nhau làm thành một thế giới chung mà ông gọi là “Cõi thanh tịnh của lòng” [8]. Nó là cõi gì vậy? Thanh tịnh là cõi thơ tuyệt đối, cõi đẹp; Thanh tịnh cũng là chốn cứu rỗi, giải thoát. Nhìn phía này là Tôn giáo, nhìn phía kia là Thi ca.

Thi ca đã đồng hoá Tôn giáo hay Tôn giáo đã đồng hoá Thi ca? Không còn phân định được nữa. Cả hai đã hoà vào nhau, đã đồng thể trong một hình thái. Sự hoà nhập này được hiện ra trong một thi học độc đáo: “Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt” [9]. (Trong thơ Hàn Mặc Tử, các địa danh Cõi trời cách biệt, cõi Xuất thế gian, cõi Siêu hình, xứ Say mơ, Triều thiên, chốn Phượng trì... tất cả những tên gọi ấy chỉ là biến thể khác nhau của cùng một “cõi thanh tịnh của lòng” mà thôi. “Phượng trì! Phượng trì! Phượng trì! / Thơ tôi bay suốt một đời khôn thấu / Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu / Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang”). Và còn được biểu hiện trong một sự hoà hợp độc đáo về chức năng thi ca mà Tử muốn gán cho nó: Thơ - cầu nguyện. Bởi thế, nói Tôn giáo ở đây thuộc về một hình thái tư duy thơ hay chỉ là phạm trù đức tin của một người làm thơ có lẽ đều chưa ổn. Phải chăng, thi sĩ là một kiểu nhà thơ lãng mạn đặc biệt? Một điều có thể khẳng định được là: với quan niệm đặc biệt ấy, thì thơ đối với Hàn Mặc Tử là một nỗ lực vươn tới và chinh phục cái địa hạt Tột cùng. Với cả quan niệm lẫn thi nghiệp đã để lại, chẳng phải Hàn Mặc Tử là cái hình thái tột cùng của một thi sĩ đó ư?

Tuy nhiên để hiểu kĩ nội dung của lẽ huyền nhiệm trong tôn giáo riêng của Hàn Mặc Tử, cần phải nắm được một thực thể khác, điểm tụ của cả quan niệm thơ và quan niệm tôn giáo của thi sĩ này: Linh hồn thanh khiết.

5. “Linh hồn thanh khiết” hay vẻ đẹp “trinh khiết xuân tình”

Tư tưởng của một nghệ sĩ bao giờ cũng là sự hoà điệu giữa quan niệm nhân sinh và quan niệm thẩm mĩ. Quan niệm nhân sinh trả lời câu hỏi về hạnh phúc, còn quan niệm thẩm mĩ trả lời câu hỏi về cái đẹp. Cả hai sẽ tạo ra một lực đẩy chung khiến nghệ sĩ suốt đời mải mốt tìm kiếm những gì là tinh hoa của cuộc sống. Tư tưởng ấy cũng chi phối toàn bộ việc kiến tạo nên cái thế giới nghệ thuật của nghệ sĩ đó. Bởi vậy, muốn nắm được tư tưởng của một nghệ sĩ không thể né tránh những câu hỏi then chốt: vẻ đẹp anh ta khao khát là gì? hạnh phúc anh ta ao ước là gì?

Tinh hoa của sự sống theo quan niệm Hàn Mặc Tử đó là vẻ đẹp Trinh khiết mà Xuân tình. Suốt đời mình, Tử hướng về vẻ đẹp đó. Trong hoan lạc, Tử hướng về đó. Và chính nó làm nên niềm hoan lạc trong trắng. Trong Đau đớn tuyệt vọng, Tử cũng hướng về đó. Nó như một cứu chuộc, cứu tinh. “Tôi muốn trọn đời ngưỡng mộ vẻ trắng trong nguyên vẹn, nguồn tươi, ánh sáng, thơ vì đấy là hình tượng của LINH HỒN THANH KHIẾT” [10]. Được viết bằng tiếng Pháp trước lúc lâm chung, có thể nói, những lời kia là những lời tuyệt mệnh của Hàn Mặc Tử. Đó cũng chính là cái nhiệt hứng sôi nổi và thánh thiện nhất chi phối cả đời thơ Hàn Mặc Tử. Ta hiểu vì sao thơ Tử dành nhiều cảm xúc mãnh liệt đến thế cho xuân đời chín ửng, cho xuân thiên thánh thiện, cho sắc trắng tinh khôi, cho ánh sáng muôn năm thanh khiết: “trắng quá, trắng hơn da thịt của người tiên, của lụa bạch, hơn phẩm giá tiết trinh - một màu trắng mà tôi cứ muốn lăn lộn điên cuồng, muốn kề môi hôn, hay áp má lên để hưởng sức mát rượi dịu dàng của cát”, “Sáng thơm tho như ánh ngọc hừng đông”, “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên / Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, “áo em trắng quá nhìn không ra”, “Vạn tuế bay ơi nắng rợp trời”... Ta hiểu vì sao, hình ảnh các Giai nhân ngự trị trong cõi thơ Tử từ Gái quê cho đến Đau Thương, Thượng Thanh Khí, Cẩm châu duyên, Duyên kì ngộ, Quần tiên hội... dù đó là những cô gái quê trong đời hay những người trong mộng, dù là những người ngọc trong sách hay tiên nữ, thánh nữ ở cõi tiên cõi trời... ai cũng phải mang chung một vẻ đẹp: Trinh khiết Xuân tình - “Mới lớn lên trăng đã thẹn thò / Thơm như tình ái của ni cô”, “Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc / Cả một mùa xuân đã hiện hình”, “Tấu lạy bà người là đấng trinh tuyền thánh vẹn”... Và ta cũng hiểu vì sao, Hình tượng thế giới trong thơ Hàn Mặc Tử vận động từ trần gian với diện mạo của Chốn nước non thanh tú (ở những tập đầu) đến cõi trời cách biệt trong hình dạng một Thế giới Huyền diệu, một Cõi Thuần linh (ở những tập sau) lại được xây cất bằng thanh khí, bằng trăng, hoa, nhạc, hương, gấm, ngọc, bằng tinh anh của vạn vật...

Câu hỏi đặt ra là: tại sao Hàn Mặc Tử lại khao khát vẻ đẹp này? Tại sao được sống trong niềm khát khao kia, Hàn Mặc Tử lại coi là hạnh phúc tột cùng của mình. Câu trả lời là: vẻ đẹp ấy đã đáp ứng những nhu cầu sâu xa của cõi tinh thần Hàn Mặc Tử, người mang trong mình phẩm chất của cả một thi nhân lẫn một người mộ đạo. Một đằng biểu hiện bằng đời sống tâm hồn, một đằng biểu lộ trong đời sống tâm linh.

Trong chiều sâu của cấu trúc tinh thần một con người nói chung vẫn có sự tồn tại của cả hai đời sống tâm hồn và tâm linh. Chúng thống nhất với nhau và thường chuyển hoá sang nhau, nhưng không hề đồng nhất. Nếu Tâm hồn chủ yếu là đời sống tinh thần hướng về cái Đẹp, thì Tâm linh lại chủ yếu là đời sống tinh thần hướng về cái Thiêng. Tâm hồn sống chủ yếu bằng mĩ cảm. Tâm linh sống chủ yếu bằng tín niệm. Niềm khao khát của Hàn Mặc Tử có sự giao thoa của cả hai lực sống ấy. Hàn khát khao vẻ Trinh khiết Xuân tình không chỉ bằng tâm hồn của một thi nhân mà còn bằng tâm linh của một tín hữu. Khát vọng về vẻ Trinh khiết Xuân tình ở Hàn Mặc Tử không chỉ là say mê cái đẹp của một thi nhân mà còn là ngưỡng vọng cái thiêng của một tín đồ.

Vậy là, vẻ Trinh khiết Xuân tình là hình thái thẩm mĩ tột cùng mà thi sĩ này hằng tìm kiếm cho thi ca của mình. Nó như điều thuộc về lôgic nội tại của một hồn thơ.

Nói Tôn giáo và Thi ca đã tìm thấy một hoà điệu nhuần nhuyễn trong bề sâu tư tưởng của Hàn Mặc Tử là như thế. Nét nổi bật nhất và xuyên suốt các chặng đường thơ của chàng thi sĩ này cũng là như thế.

6. Thơ Điên Hàn Mặc Tử - Thi học của cái Tột cùng

Chinh phục cái Tột cùng, tất nhiên, cần phải có thơ ca của một hình thức tột cùng. Hình thức ấy, đối với Hàn Mặc Tử, liệu có thể là gì khác hơn Thơ Điên?

Nói đến Hàn Mặc Tử là nói đến nhà thơ lạ nhất của Phong trào Thơ Mới, người “cai trị Trường thơ Loạn của các nhà thơ Bình Định” [11]. Nói đến thơ ông, người ta nhớ đến thơ Cổ điển trong Lệ Thanh thi tập, thơ Lãng mạn trong Gái quê... nhưng, hơn tất cả là nhớ đến Thơ Điên trong Đau thương. Có thể nói chính Thơ Điên chứ không phải gì khác là phần đặc sắc nhất đã làm nên cái “lạ” kia, làm nên tên tuổi và ngôi vị Hàn Mặc Tử.

Tôi muốn dành mục cuối này, cũng là mục dài nhất, để nói về cống hiến quan trọng nhất này của Hàn Mặc Tử cho thơ ca hiện đại.

Trong lời tựa Điêu tàn - vẫn được xem là bản tuyên ngôn chung của Trường Thơ Loạn mà Tử là “kẻ cai trị”- có viết: “Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười tràn cả tuỷ là tuỷ. Thế mà có người tự cho là hiểu được nó, rồi đem so sánh nó với Người, và chê nó là giả dối, không chân thật. Vâng! Nó không chân thật, nó giả dối với Người. Với nó, cái gì nó nói đều có cả” [12]. Cái gì nó nói đều có cả đó là nguyên tắc chân thật. Điều ấy không phải là độc quyền của thi phái này so với các thứ thơ khác. Cái gì của nó cũng tột cùng, đó mới là nguyên tắc mĩ học đặc thù của Thơ Điên. Đọc Hàn Mặc Tử, ta sẽ thấy cái ham muốn tột bậc của thi sĩ này là tìm đến một Cõi thơ tuyệt đối, đi đến một thứ thơ mà cái gì ở đó cũng phải là Tột cùng (Dĩ nhiên, Tột cùng đây là theo cách quan niệm của thi sĩ). Là thi phẩm vào loại đắc ý nhất của ham muốn này, Thơ Điên đã hiện rõ trên diện mạo của mình cả sức mạnh cùng giới hạn của những cái Tột cùng ấy.

Cái tên có phần “giật gân” của Thơ Điên, ngay từ đầu đã có sức mê hoặc giới nghiên cứu. Người ta nghĩ ngay đến việc nhận diện bản chất của Điên và bản chất Thơ Điên. Không ít người đã yên chí với cách nghĩ giản đơn: điên chỉ là một trạng thái bệnh lí, đồng nghĩa với chứng loạn thần kinh, mà không thấy rằng còn có điên như một trạng thái sáng tạo. Đó là lúc cảm hứng đến như một cơn “sốc”, người làm thơ lâm vào một cơn sáng tạo như “lên đồng”. Ý thức tỉnh táo như mờ đi, lùi lại phía sau, nhường phần lớn quyền điều hành qui trình sáng tạo cho tiềm thức, vô thức. Chế Lan Viên phân biệt giữa làm thơ của những thi sĩ thường tình với trường hợp Hàn Mặc Tử trong Thơ Điên là bị thơ làm, chủ yếu bởi điều này. Tuy nhiên, đa phần là lao vào việc nhận diện Thơ Điên, mà cũng thường lấy tiêu chí của Thơ Lãng mạn, Tượng trưng, Siêu thực... để xếp nó vào các ô ấy [13]. Nhưng Thơ Điên vốn là một dung hợp đa tạp, nó bướng bỉnh không chịu ở yên trong một ô nào. Việc dùng những tiêu chí của những khuynh hướng thơ có sẵn để soi xét một hiện tượng thơ mới nảy sinh là điều cần thiết - giúp ta phân loại và định giá rõ một trường hợp cá biệt trong cái mặt bằng chung. Song, một sáng tạo thực sự mới lạ bao giờ cũng có sự bất kham nào đấy, những ngăn ô, yên cương cũ rất dễ bị chối bỏ. Vả chăng, đấy cũng chỉ là cái thao tác sau. Sao trước hết không bắt đầu bằng việc hình dung về cái diện mạo của nó. Biết đâu, cái diện mạo riêng kia sẽ đòi phải có một ngăn ô mới. Biết đâu Thơ Điên chỉ có thể hợp với... Thơ Điên.

Tôi cho là như thế, Thơ Điên Hàn Mặc Tử đó là Thi học của cái tột cùng.

Khái niệm “Thơ điên” vẫn được lưu hành với ít nhất ba tư cách: 1) một thi phẩm, nó chính là tập thơ Đau thương; 2) một quan niệm thẩm mỹ về thơ cùng với nó là khuynh hướng thi ca không chỉ tồn tại ở Việt Nam, có thể nói bắt đầu từ Mallarme; và 3) một loại hình thơ được chủ trương bởi Hàn Mặc Tử và các nhà thơ thuộc “trường thơ loạn” Bình Định. ở đây, nó được đề cập đến chủ yếu ở tư cách thứ ba. Và đối tượng khảo sát cơ bản là tập Đau thương.

Trước hết, cần khẳng định: Thơ Điên không phải là một phát minh mới về thể loại. Nó vẫn thuộc phạm trù Thơ Mới. Nhưng là một dạng thức Thơ Mới đặc biệt. Nghĩa là bên cạnh những đặc trưng của “loài” Thơ Mới, nó vẫn có những đặc trưng về “giống”riêng. Những khái quát dưới đây về diện mạo của thơ Điên không phải chủ yếu từ những tuyên ngôn về một mô hình thơ thuộc ý thức lí thuyết, mà chủ yếu từ thực tế sáng tác. Những đặc trưng ấy tồn tại trong thế ràng rịt lẫn nhau, nên việc tách bạch chỉ là tương đối.

6.1. Nguồn cảm xúc đặc thù của thơ Điên: Đau thương

Chúng ta đều biết một chân lí quen thuộc: “Thơ là tiếng lòng” (Diệp Tiếp). Mỗi tiếng thơ đều xuất phát từ một tiếng lòng riêng. Một loại hình thơ, xét một mặt nào đó, là một tiếng lòng được điệu thức hoá. Mà tiếng lòng là cảm xúc. Cái nguồn cảm xúc tìm đến hình thức thơ Điên chính là Đau Thương vậy.

Nhiều người đã động tới Đau Thương [14]. Nhưng không phải ngay từ đầu Đau thương đã được hiểu một cách đúng đắn. Suốt mấy chục năm qua, trong giới “Hàn học”, vẫn không ít người, bởi lí do nào đấy, cứ đánh đồng Đau đớn về thân xác với Đau khổ về tinh thần để hạ thấp thơ Hàn xuống thành những tiếng rên siết của một xác thân bệnh hoạn, để nhìn nhận nó như một thứ suy đồi. Chúng ta không loại trừ những Đau đớn thân xác đã đầu quân khá đông vào thơ Tử. Nhưng chỉ có thế không thôi, làm sao có thể thành thơ được. Chỉ khi nào những Đau đớn xác thân, với một cơ chế nào đấy, chuyển hoá sang địa hạt tinh thần, hoá thân vào nỗi Đau khổ tinh thần, thì khi ấy tiếng nói của nó mới cất lên thành thơ. Nhìn một cách khác, đau đớn thân xác chỉ là những chất liệu để Hàn Mặc Tử biểu hiện những đau khổ tinh thần của mình. Đó là một rắc rối mà cũng là một ma lực của thơ Tử. Về bản chất, Đau thương ở Tử là một niềm tuyệt vọng lớn. Và đây chính là nguồn cảm xúc ở cung bậc Tột cùng của tiếng nói trữ tình. Niềm tuyệt vọng được dâng lên từ thân xác bệnh hoạn mà gia nhập vào cõi tinh thần hay từ tinh thần đã tan thấm vào mọi nơi chốn của xác thân? Niềm tuyệt vọng đến từ một sự đứt gẫy nào đó trong tâm thể hay từ một dự cảm thường trực về cái chết cận kề cứ chốc chốc lại vồ chụp lấy tâm trí Tử ném thẳng nó xuống cái vực không đáy của Hư vô? Có lẽ là cả hai. Cho nên trong thơ Tử, ta có thể cảm nghe được cả một thế giới bên trong vô hình đang lâm vào tuyệt vọng qua những tiếng rên rỉ rớm máu của thân xác bên ngoài. Nếu ai kia “viết dưới giá treo cổ” [15], thì Tử đang viết dưới cái bóng vừa huơ lên của lưỡi hái tử thần. Sống đối với Tử, bấy giờ, là một cuộc chạy đua bạt vía tuyệt vọng đối với tử thần. Chữ “mãnh liệt” e rằng không còn đủ độ để diễn tả trạng thái sống như một dây đàn ở cái chót điểm sắp sửa đứt phăng của Tử. Sống tức là Yêu. Lòng yêu sống đã đẩy thi sĩ đến cận kề cái tiếng nổ tự phá huỷ của cõi tinh thần. Cho nên đó cũng chính là cái nỗi cô đơn đặc biệt: nỗi cô đơn quá tải. Chỉ có những kẻ xấu số bất hạnh thế mới có được trải nghiệm này. Vậy là, Đau thương ở Tử là một thứ siêu nghiệm. Đau thương vừa là dạng thức vừa là cung bậc của cảm xúc thơ thường trực trong hồn thơ Hàn Mặc Tử.

Song, điều đẹp đẽ là ở chỗ: Tuyệt vọng có thể chấm dứt hi vọng, nhưng không chấm dứt tình yêu. Tình yêu ở Tử càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng lại càng mãnh liệt. Và, như một nghịch lí không khó hiểu, tình yêu tuyệt vọng đó đã trở thành một cách thế yêu đời của Hàn Mặc Tử. “Phải vì tất cả đều đang đi đến cái chết, nên tất cả mới hiện lên rực rỡ đến thế.” Không có ai tha thiết với cuộc đời cho bằng một người sắp sửa lìa đời. Nhìn cuộc đời ở thời điểm chót cùng của đời người đó là tâm thế trữ tình, là tâm thế sáng tạo đặc thù của Hàn Mặc Tử trong Thơ Điên. Tại thời điểm ấy, niềm thiết tha đồng nhất với nỗi đau đớn - Càng thiết tha càng đau đớn, càng đau đớn càng thiết tha. Nghịch lí của niềm tuyệt vọng kia cũng chính là như vậy. Và đây là cái gốc của thơ Điên. Đúng thế, nếu Đau thương là nội dung sáng tạo, thì Điên là hình thức của sáng tạo ấy. Nói cách khác Điên chính là sự hiện hình, sự cất tiếng của Đau thương. Tất cả những yếu tố dị thường đến mức kì quái nữa, sở dĩ có thể thành thơ được là nhờ được đảm bảo bằng một thứ siêu nghiệm như thế.

Có lẽ chưa cảm thông hết với nguồn sống thuộc về siêu nghiệm này, mà Xuân Diệu, trong bài Thơ của Người [16], đã tỏ ý nghi ngờ Thơ Điên. Trái lại, Chế Lan Viên - một thi hữu của Hàn - ngay từ đầu đã tiền hô hậu ủng, và đến khi viết giới thiệu cho Tuyển tập của người tri kỉ xấu số, vẫn giữ vững ý kiến bênh vực sắc bén của mình. ông dẫn ra một tiếng thơ có một vẻ rất “điên”, và chỉ ra yếu tố nào đã đem lại sức sống chân chính cho nó: “Chúng ta cần có người tả trăng là trăng. Nhưng cũng cần có người vượt lề thói tập đoàn mà xẻ trăng làm hai nửa (...) Cần truyền thống nhưng cũng cần biến dị, cần nói những điều chưa ai nói (...) Hôm nay có một nửa trăng thôi / Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi/... Không phải ma thuật, kĩ thuật gì của óc đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là có một thảm sử gì làm trữ kim, làm đảm bảo, thì mới có thể phát ra những từ ấy” [17]. Thế đấy, Đau thương chính là thứ trữ kim tột cùng của thơ Hàn.

Nhờ thứ trữ kim này người ta chẳng những thấy được cái lí của những hình thức kì dị, quá xa lạ, mà còn xuyên qua rào cản của những cảm giác kinh dị để nhận chân những nỗi niềm thơ chân chính của thi nhân. Thơ Điên vì thế là tiếng kêu rỏ máu của con chim sắp lìa trần, là tiếng nói của những hụt hẫng tan hoang, là tiếng nói của một thân phận bị dồn đẩy đến miệng vực của nỗi chết, chới với bên miệng vực ấy mà ngoái nhìn đời, nuối đời, níu đời. Mỗi tiếng thơ khác nào một lời nguyện cuối, một lời tuyệt mệnh. “Tôi còn trìu mến biết bao người / Vẻ đẹp xa hoa của một trời / Đầy lệ đầy thương đầy tuyệt vọng? / Đây giờ hấp hối sắp chia phôi”, “Ta trút linh hồn giữa phút đây / Gió sầu vô hạn nuối trong cây / Còn em sao chẳng hay gì cả / Xin để tang anh đến vạn ngày”... Cảm xúc chia lìa vĩnh biệt luôn choán ngợp cõi lòng, vò xé tâm can. “Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt.”, “Than ôi! Hỡi biệt li chan chứa / Tưởng cùng em vui hưởng thú tiêu dao / Anh sắp đi và hai hàng lệ ứa / Cả đau thương dồn dập xót tâm bào”, “Sao thơ anh toàn nhuộm màu li biệt / Rên không thôi và nức nở cả ban đêm”... Có thể nói, bước vào Thơ Điên là bước vào cái thế giới quằn quại của tinh thần. Nó là biểu hiện của những giằng xé quyết liệt giữa Bóng tối của Bệnh tật, Chết chóc, Ma quỉ với ánh sáng của Tình Yêu, Sự sống, Thần thánh... giữa Cố chấp, Thù hận, Hẹp hòi với Khoan dung, Độ lượng, Cao cả... giữa Địa Ngục hắc ám với Thiên đường quang minh... Tất cả những phản trái nghịch lí của nó đều là ngôn ngữ của Đau thương.

Tuy trong các tuyên ngôn của mình, Hàn Mặc Tử đây đó tỏ ra không thật “tâm phục khẩu phục” Baudelaire, nhưng trường ảnh hưởng từ vị sư tổ của Chủ nghĩa Tượng trưng phương Tây này lớn đến mức khó cưỡng được, cho nên không thể không thấy Thơ Điên có dây mơ rễ má với Hoa ác. Bởi hướng thơ của tác giả Hoa ác tuy vẫn được coi là đi tìm Cái Đẹp trong Cái ác, nhưng suy cho cùng, nó vẫn là bông hoa mọc lên từ cái gốc Đau thương. Dầu vậy, Đau Thương của Thơ Điên căn bản vẫn là cất lên từ thân phận thảm sử của Hàn Mặc Tử, có nghĩa: căn bản là nội sinh. Không có cái căn cốt là giá máu mà Hàn đã đánh đổi cho mỗi tiếng thơ của mình thì chưa chắc Thơ Điên đã đi xa hơn việc chạy theo một cái mốt tân kì để có thể làm rớm máu tâm can người đọc ở tận thế kỉ này. Và Đau thương đã tự tìm đến những hình thức của nó theo kiểu Hàn Mặc Tử.

6.2. Chủ thể Thơ Điên: Cái Tôi li - hợp bất định

Trong thơ trữ tình, việc chủ thể phân thân, hoá thân vào các đối tượng hết sức khác nhau để cất lên những tiếng nói trữ tình phong phú khác lạ không còn là điều xa lạ nữa. ở Thơ Điên, tình hình có khác hơn. Sự phân li của chủ thể ở đây không theo lối tuyến tính mà theo lối đồng hiện: một xác thân nhiều nhân cách. Toàn những “nhân cách” phản trái nhau và phản trái với chính thơ. “Thi sĩ không phải là Người - lại vẫn lời tuyên ngôn chung của trường thơ Loạn - Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỉ, là Tinh. Nó thoát hiện tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai.” [18]. Đau thương đã biến chủ thể Thơ Điên thành một chủ thể sinh hoá màu nhiệm kì khôi - Cả một miệng ta trăng là trăng / Cả lòng ta vô số gái hồng nhan / Ta nhả ra đây một nàng/ Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây... Dường như chính Đau thương đã tạo ra một cuộc nổ vỡ nào đó của tinh thần mà phá vỡ tính nhất thể của cái Nguyên Tôi, phân li nó thành muôn mảnh. Mỗi mảnh vừa là một phân thân của Cái Tôi kia lại vừa là một cái Tôi khác tự lập - Kìa ai gánh máu đi trên tuyết / Với lại ai ngồi khít cạnh tôi / Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng / Không nói không rằng nín cả hơi... Xác thân là một Tôi, Hồn lại tách ra thành một Tôi khác, đùa cợt, rượt đuổi, trêu tròng nhau, thậm chí thôn tính lẫn nhau - Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng... / áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng/ Hồn đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến... Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay / Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc, Ôi điên cuồng! Ôi rồ dại! rồ dại / Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta... Dầu sao đó chỉ là sự sinh hoá trong một thực tại ảo. Không thể say mê với thực tại ảo đó mãi được, muôn mảnh ấy tất sẽ tái thống nhất trong một bản tướng, bản thể duy nhất bằng chính Đau thương - Thưa tôi không dám say mê / Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền / Bây giờ tôi dại tôi điên / Chắp tay tôi lạy cả miền không gian... Việc tạo ra kiểu chủ thể này ít nhiều thấy cả trong thơ Bích Khê, Chế Lan Viên, Hoàng Diệp, Xuân Khai... Và người ta cho rằng Văn hoá Chàm cùng với những bóng ma Hời phổ biến ở vùng thành Đồ Bàn đã nhập vào thế giới thi ca của Trường Thơ Loạn kia. Điều này có lẽ có thực. Song ở Hàn Mặc Tử, cái ngoại nhập mờ hơn cái nội sinh. Chính đời sống thực thể đặc biệt của Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn sau, lúc nào cũng chập chờn bất định giữa Thực tại và Chiêm bao, lại có lúc cận kề cái chết hay xuất hồn siêu thăng vào cõi khác, là cái vốn nội sinh đã đồng hoá những ngoại nhập đó thành cái chủ thể sinh hoá kì dị này. Nó cũng là một thứ siêu nghiệm mà chỉ những người như Hàn Mặc Tử mới trải qua. Và, không có cái chủ thể sinh hoá một xác thân nhiều nhân cách quái đản ấy làm sao chủ thể Thơ Điên có thể hiện ra như một Kẻ Điên để làm nên diện mạo của loại hình thơ này được? Song, điều đáng nói hơn ở đây phải là: chủ thể như thế chính là cái hình thái tột cùng của một chủ thể trữ tình.

6.3. Kênh hình ảnh tân kì của Thơ Điên: những vẻ kì dị

Nếu không có kênh hình ảnh này, chưa chắc Đau thương đã được gọi là Thơ Điên. Cũng vì thế, ai đã đọc Thơ Điên, không thể không thấy vẻ kì dị, kinh dị tràn ngập ở đó. Người này thấy Tử hay nói đến sự Tan Loãng của xác thân với những rơi rụng, tàn rữa. Người khác thấy Tử thường chuyển vô số cảm nhận thuộc các giác quan khác về một khí quan là cái miệng, là “khẩu cảm” với những động thái ăn, nuốt, đớp, nhả, mửa, khạc... vốn rất kị giơ với thi ca truyền thống. Và nhất là ai cũng đã từng bị “sốc” trước những vẻ kinh dị hãi hùng của Trăng - Hồn- Máu. Không ít người gọi đó là vẻ đẹp kì dị: “... Tôi toan hớp cả váng trời / Tôi toan đớp cả miếng cười trong khe”, “Ta cắn lời thơ để máu trào”, “Ta há miệng cho hồn thơ trào vọt”, “Cười no nê sặc sụa cả mùi trăng”, “Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng”, “Hồn vội mớm cho tôi muôn ánh sáng”, “Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa / Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô / Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy / Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra...” Có thể nói không ngoa rằng đó là cả một cuộc nổi loạn trong cảm giác của thi ca. Với những vẻ kinh dị này, Thơ Điên muốn xé rào để tìm kiếm cho thơ những miền cảm giác mới - cảm giác mạnh, đẩy cái kinh dị đến tột cùng. Dù nó có phần xa lạ với Người.

Thực ra, vẻ kinh dị trong thơ Hàn Mặc Tử không quá xa lạ. Người ta đã từng tiếp nhận Cái Kì trong truyền thống ở những chuyện ma quỉ dân gian, ở những Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, Truyền kì mạn lục, cả đây đó trong Truyện Kiều... của Ta và Liêu trai chí dị của Tàu. Và đương thời Hàn cũng không phải là hiếm đồng minh trên con đường phiêu lưu vào thế giới của cái kinh dị. Ngoài những thi hữu thân cận, có thể thấy cả Thế Lữ, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển, v.v... Song, có thể nói, Quyết đi tìm sự lạ chính là động cơ lớn chi phối hành trình sáng tạo của Hàn Mặc Tử - Trong tiểu luận Nghệ thuật là gì? ông đã viết: “Quăng mình đi giữa cái vũ trụ mênh mông, rượt nà theo những nguyện vọng cao xa, những cái ý nghĩa, ấy là do cái năng lực tinh thần mạnh mẽ nó thúc giục mình (...) Bồn chồn, ta quyết đi tìm sự lạ” [19]. Tuy thế, động cơ vẫn sẽ chưa chịu nổ dù đã nạp đầy nhiên liệu, nếu như không nhờ đến cái bugi đánh lửa Baudelaire. Cả Xuân Diệu - mới nhất trong các nhà Thơ Mới, lẫn Hàn Mặc Tử - lạ nhất trong những nhà Thơ Mới đều chia nhau ảnh hưởng từ bậc thầy của Chủ nghĩa Tượng trưng này. Nếu Xuân Diệu đã nhận từ Baudelaire lối tư duy Tương ứng - chủ yếu là tương ứng giữa các giác quan - làm một la bàn hữu hiệu để đi vào “thế giới của Du Dương” mà săn tìm những vẻ đẹp trần thế, thì Hàn Mặc Tử lại lĩnh từ tác giả Hoa ác một cảm quan ma quái để đi mãi vào thế giới Đau thương, rồi cứ bị thôi miên bởi những Vẻ đẹp kì dị, kinh dị. Baudelaire đã tìm kiếm chất thơ ở những vật ghê rợn kinh hãi như xác chết, máu me, xương tuỷ, sự dâm đãng, v.v... Đến lượt mình, Hàn Mặc Tử và các thành viên của trường thơ Loạn cũng tìm thi hứng và nói rất thoả mái đến những xác chết, sọ dừa, đầu lâu, mồ hoang, giếng loạn, xương khô, sự trần truồng, sự dâm đãng... Tuy nhiên, trong khi các thi hữu của mình như Chế Lan Viên, Bích Khê nghiêng về sự tuân thủ những quan niệm lí thuyết, nghĩa là tuân theo những mô thức do họ phác ra từ trước, thì riêng Hàn Mặc Tử lại có một đời sống thực thể rất gần với cái thế giới kinh dị đó. Ông thường xuyên rơi vào tình trạng cô đơn tuyệt đối, tinh thần bị vây khốn giữa một cõi sống đơn độc, luôn bị ám ảnh bởi nỗi chết của riêng mình, và dường như lúc nào cũng có thể cảm thấy mười mươi cái bóng đen đúa, cái âm khí lạnh ngắt cùng đôi mắt rùng rợn của tử thần, cho nên tinh thần của thi sĩ luôn lạc giữa cái trùng vây của những biểu tượng kinh loạn nhất của thế giới khác. Nghĩa là bản thân cõi tinh thần của Tử đã là kinh dị. Cả yếu tố nội tại này lẫn quan niệm từ phương xa kia mới hội đủ những lí do khiến Hàn Mặc Tử nói đến cái kinh dị với cường độ lớn đến thế và tự nhiên như là máu thịt đến thế.

Dầu sao cũng phải nói thêm rằng: Nếu chỉ có cái kinh dị không thôi, hẳn Thơ Điên cũng sẽ là quá tải ngay cả với những người nghiện săn lùng những cảm giác gai gợn trong thơ. Thơ Điên sở dĩ vẫn là nó không chỉ vì nó được bảo hiểm bằng nỗi đau thương tột cùng, mà còn bởi Cái Kinh dị luôn biết chung sống hoà bình với những vẻ đẹp khác. Chỉ nói riêng ba biểu tượng Trăng - Hồn - Máu cũng thấy rằng, những hình ảnh được sáng tạo về chúng có cả những gì kinh dị nhất, cũng có cả những gì lộng lẫy nhất mà thơ ca có thể làm được. Trăng chẳng hạn: có “Trăng tự tử”, “Trăng ngã ngửa vỡ tan thành vũng đọng vàng khô”, “Trăng sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”... nhưng cũng có “Trăng vàng, trăng ngọc”, có “Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ / Đầy mình lốm đốm những hào quang”, có “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay”... Phải chăng tham vọng Thơ điên của Hàn Mặc Tử là hướng tới cái tột cùng về cả hai thái cực?

6.4. Mạch liên kết của Thơ Điên: Dòng tâm tư bất định

Không ít người trong giới “Hàn học” đã cảm nhận được một vẻ “kì cục” ở đôi bài là mạch thơ “cóc nhảy”, “đầu Ngô mình Sở”. Và căn cứ vào dấu hiệu này mà nhiều người vội xếp thơ Hàn Mặc Tử hẳn vào ô siêu thực. Thực ra, những cảm nhận ấy đã vô tình chạm đến một nét đặc trưng của Thi pháp Thơ Điên: mạch liên kết Siêu lôgic. Có nghĩa là sự liên kết trong các thi phẩm cứ như muốn tuột ra khỏi tầm kiểm soát của lí trí, các mảng thơ dính với nhau không phải do áp lực của tính hợp lí thuộc một lôgic thông thường, song nó vẫn gắn kết theo một kiểu riêng. Đây cũng là một tất yếu - tuân theo lôgíc thông thường thì sao có thể là Thơ Điên? Điều này có cội nguồn riêng của nó.

Đọc những gì có thể gọi là quan niệm lí thuyết của Hàn Mặc Tử về thơ, không hề thấy Tử nói đến “Câu thơ tự hành” hay “tự động” như nhiều nhà Tượng trưng và Siêu thực chủ trương. Vậy là kiểu liên kết này có lẽ không đến với Tử từ nhận thức lí thuyết ngoại nhập. Nó là nội sinh. Trước hết là từ kiểu tư duy đặc biệt của Tử, mà Hoàng Ngọc Hiến gọi bằng “siêu thức” [20]. “Ngoại cảnh đã xâm lấn xác thịt và linh hồn tôi - Hàn Mặc Tử viết trong “Chiêm bao với Sự thực”- Bao nhiêu là tinh anh của non sông đều xông vào tôi rút hết tình tiết tôi. Tôi có thể bảo đây là lối thần giao cách cảm, mà ngoại cảnh hay thâm tâm đồng xáo động (...) Tôi cảm thấy hồn tôi mất đi một nửa, và tôi đương sống trong sự mơ hồ...Và tôi sẽ kí thuyết minh một cách rất nhà Phật là Sắc cũng như Không, Chết cũng như Sống, Gần cũng như Xa, Hư cũng như Thực... Những điều phản trái ấy dầu thế nào, cũng có liên lạc, mật thiết và thông cảm với nhau. (...) có hay không, hư hay thực là những huyền ảnh chập chờn trước mắt” [21].Trong một trạng thái như thế, lí trí và ý chí của thi sĩ không thể nắm vai trò độc tôn để áp đặt cái quyền lực lôgic vốn có của nó. Những sản phẩm thơ của Hàn Mặc Tử ra đời trong các trạng thái như thế sao có thể tuân theo một lôgic thông thường. Cố nhiên, để nó vẫn là thơ chứ không phải là một mớ chữ hỗn loạn, tất phải có một lôgíc riêng.

Mỗi bài thơ của Tử thường hiện ra như một dòng tâm tư bất định: tình điệu liên tục chuyển vần, hình tượng liên tục chuyển “kênh”. Tất cả cứ như một thể lỏng trôi chảy vô định hình, như một mạch liên tưởng tuỳ tiện, đứt đoạn, “cóc nhảy”. Nếu được tách bạch một cách giả định thì có thể thấy trong mỗi thi phẩm của Tử: “văn bản hình tượng” có vẻ hỗn loạn, trong khi đó “văn bản cảm xúc” lại nguyên phiến, liền mạch dù nó vần vụ qua nhiều cung bậc. Như thế liên kết thơ Điên có thể ví như khối hình Rubic: Các ô màu thì hỗn loạn trên bề mặt, nhưng tất cả lại châu tuần xung quanh cái trục bí mật náu trong lòng Rubic. Những hình ảnh tán loạn (huyền ảnh) như những mảnh vỡ văng rất xa nhau bởi một nỗi Đau thương lớn, tất sẽ lại châu tuần xung quanh chính nỗi đau kia. Đó là bản chất của Siêu lôgic trong thơ Hàn Mặc Tử.

Bước vào mỗi bài thơ Hàn Mặc Tử, người đọc không khỏi có cảm giác phân tâm: trí dường như ngơ ngác không theo kịp mạch vận động bất định của các hình ảnh, nhưng lòng lập tức bị xâm chiếm, bị cuốn đi bởi cảm xúc đau thương với những sắc điệu cung bậc khác nhau, khi thì tràn trề, khi thì ẩn kín đằng sau những hình ảnh ấy. Dòng tâm tư ngầm chảy dưới mỗi bài thơ cuốn theo lớp hình ảnh ken dày trên bề mặt thi phẩm. Ghé nhìn sang Xuân Diệu, dễ thấy mạch liên kết của thi sĩ này căn bản là bằng Tứ. Là cấu trúc ý tưởng trong nghệ thuật, nói đến Tứ là nói đến Cấu tứ trong lao động nghệ sĩ. Thơ Xuân Diệu ngay cả những bài ngỡ chỉ thuần những cảm xúc tràn lan, vẫn có một cấu tứ rất chặt, nhiều khi còn chất chứa bên trong cả một mạch luận lí nữa. Một trường hợp khác: Nguyễn Bính. Chất Tự sự trong thơ Nguyễn Bính rất đậm và thường giành lấy quyền tổ chức mạch thơ. Tình trong thơ Nguyễn Bính không phải là ít, lê thê nỉ non nữa là khác, nhưng nó vẫn là phái yếu trước tính chuyên quyền của Sự trong vai trò điều hành mạch thơ. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ nào của Nguyễn Bính cũng có cái điệu thức Kể lể Sự tình, bài nào cũng ngầm chứa một cái Cốt ở một mức độ nào đấy. Nói chung, đã theo Cốt hay theo Tứ thì mạch thơ, dù muốn dù không, vẫn cứ có một trật tự được áp đặt bởi lí trí, có lớp lang rành mạch- nghĩa là vẫn phải chịu sự dẫn dắt trực tiếp và thường xuyên của ý thức người làm thơ. Còn Hàn Mặc Tử thuộc tip thi sĩ bị thơ làm. “Bị truy kích bởi cái chết, Tử hối hả, dồn dập sáng tạo chứ đâu có làm văn! Anh trút đời mình, lòng mình từng trận, từng hơi chứ đâu có ngồi điêu khắc chạm trổ từng câu, từng chữ. Ta hiểu anh không phải từng câu, từng chữ mà từng hơi” [22]. Chế Lan Viên, trong khi chỉ ra cách đọc thơ Hàn, đã vô tình chạm đến lối liên kết siêu lôgic. Hình ảnh thơ cứ như từ một tiềm thức vần vụ mà tuôn trào ra ngoài từng cơn, từng hơi bởi một áp lực vô song của những tình cảm bị dồn nén đến Đau thương. Nên kết cấu thơ Tử dù ở bài dài hay ngắn, dù ở bài tự do hay theo thể cách, về căn bản là kết cấu của dòng tâm tư bất định đó.

Có thể chọn ngay bài Đây thôn Vĩ Dạ để khảo sát mạch liên kết (và ở đây chỉ phân tích có một bình diện ấy thôi). Chọn bài này vì nó được viết theo thể cách, thành những khổ tề chỉnh vuông vức, mối liên kết kia khó thấy hơn, do đó kết quả khảo sát sẽ điển hình hơn. Không có sự phân li chủ thể theo kiểu một xác thân nhiều nhân cách, không có những hình ảnh thật ma quái, cũng không có những tiếng kêu kinh dị... Bài thơ trong trẻo vào bậc nhất của Hàn. Có lẽ bởi những lí do đó mà nhiều người đã yên chí rằng Đây thôn Vĩ Dạ là một ngoại lệ, như lạc vào phần Thơ Điên chứ không phải một thành viên thứ thiệt của nó. Không phải. Nó vẫn thuộc thơ Điên. Chính Hàn Mặc Tử đã xếp nó vào phần đầu tập Thơ điên, phần Hương thơm. Cũng có lẽ thuộc giai đoạn đầu mà “tính chất Điên” chưa đầy đủ. Dù sao tính chất Điên đã ló ra ở những từ cực tả và nhất là ở mạch liên kết siêu lôgic. Như ta đã biết, toàn bài chỉ vẻn vẹn ba khổ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra...
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Có thể thấy rõ mạch liên tưởng “cóc nhảy”, đứt đoạn, bất định - liên tưởng điên - trong chuỗi hình ảnh của nó: ngoại cảnh (phần đầu)với tâm cảnh (phần sau); tươi sáng (vườn thôn Vĩ) với âm u (cảnh sông trăng và sương khói); hi vọng (sao anh không về...) với thất vọng (ai biết tình ai...); đang mô tả vẻ lộng lẫy của mảnh vườn thôn Vĩ với tư cách của người đương ở tít chốn xa ngóng về, thoắt đã biến hẳn vào trong cảnh để trở thành một nhân vật đã về tới nấp nom bên vườn thôn Vĩ (Sao anh không về chơi thôn Vĩ?... Lá trúc che ngang mặt chữ điền) đến nỗi đó là hình ảnh người-thôn-Vĩ hay người-trở-về-thôn-Vĩ nhoè lẫn vào nhau không còn phân biệt rõ trong cùng một gương mặt chữ điền; ba cảnh trên với vườn mướt như ngọc, sông trăng- thuyền trăng, khách đường xa thuộc thế giới Ngoài kia (cuộc sống trần gian giờ đã tuột ra ngoài tầm với), thoắt cái, không gian đã chuyển làn, đã là “ở đây sương khói” thuộc thế giới Trong này (nơi Tử đang sống trong mặc cảm chia lìa), v.v... Những mảng thơ phản trái nhau, những miền không gian rất xa nhau đã gắn kết vào nhau ngỡ như chẳng có cái lí gì! Trong từng khổ thơ cũng có những gấp khúc trái chiều. Khổ đầu: một ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như một lời mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm âm u lại mang gương mặt sáng sủa của khát khao rực rỡ. Khổ hai: một ước mong khẩn thiết dâng lên thoắt trở thành một hoài vọng chới với nghẹn ngào. Khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló rạng hướng ra thế giới bên ngoài đã vội biến thành mối hoài nghi hướng vào nơi đương tồn tại. Mối u hoài nối ba khổ thơ tách biệt ấy còn được thể hiện bằng một “sợi dây” liên kết khác nữa: Ba khổ đều ngầm chứa ba câu hỏi với bốn chữ ai rải đều trong lòng bài thơ (Vườn ai? thuyền ai? ai biết tình ai?) khiến chúng vang lên trong một nền âm hưởng đặc biệt ấy là giọng điệu da diết khắc khoải. Vậy đấy, nếu lối “liên tưởng điên” tạo ra một văn bản hình tượng đầu Ngô mình Sở, thì dòng lưu chuyển cảm xúc đau thương dưới dạng u hoài khắc khoải kia lại tạo ra một âm điệu nhất quán, liền mạch. Phi lôgic ở bề mặt, nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu, đó chính là Siêu lôgic - nét thi pháp thơ Điên điển hình của Đây thôn Vĩ Dạ. Và Siêu lôgic chẳng phải là kiểu tột cùng của liên kết thơ sao?

6.5. Lớp ngôn từ nổi bật của Thơ Điên: Lớp từ cực tả

Làm nên diện mạo một loại hình không thể không có vai trò của lớp ngôn từ riêng. Với Thơ Điên, đó là lớp ngôn từ cực tả - hiểu theo nghĩa là lớp từ có thiên hướng biểu tả ở mức cực điểm. Thơ Điên đã dung chứa trong nó một lớp ngôn từ đối nghịch gay gắt. Có cả những tiếng rên siết thê thiết của một xác thân bị dày vò tàn huỷ: “Trời hỡi làm sao cho khỏi đói / Gió trăng có sẵn làm sao ăn”; “Ôi trời ơi là Phan Thiết! Phan Thiết!”; “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi”... Dễ hiểu vì thi sĩ Thơ Điên này chủ trương rằng: “không rên siết là thơ vô nghĩ lí”. Lại có cả những lời cầu nguyện từ một tâm linh mộ đạo thanh khiết: “Tấu lạy bà, Người là Đấng trinh tuyền thánh vẹn”; “Tôi lạy muôn vì tinh tú nhé”... Điều này cũng dễ hiểu bởi, chính Hàn Mặc Tử còn muốn sáng tạo ra một thứ kết hợp cho điều đó khi gọi bằng “Thơ - Cầu nguyện”. Ngôn từ trong thơ Tử thường đẩy lên ở mức chót cùng của các xu hướng. Hướng trực cảm thì dường như ngôn từ không theo được những linh giác quá bén nhạy. Riêng sắc trắng không thôi đủ thấy khía cạnh này. Là người say đắm vẻ đẹp trinh khiết, Tử rất hay nói tới sắc trắng lạ lùng. Không chỉ phô màu mà còn hắt lên cả ánh: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, trắng đến nỗi ngôn từ phải vặn mình mà diễn tả: “Chết rồi xiêm áo trắng như tinh”..., trắng đến độ ngôn từ phải gồng mình chạy đua với trực giác: “Động là một thứ hòn non bằng cát, trắng quá, trắng hơn da thịt người tiên, của lụa bạch, hơn phẩm giá tiết trinh- một màu trắng mà tôi cứ muốn lăn lộn điên cuồng, muốn kề môi hôn, hay áp má lên để hưởng sức mát rượi dịu dàng của cát”, trắng đến ngỡ như thị giác đã bất lực: “áo em trắng quá nhìn không ra”... Hướng ước lệ thì tuyệt đỉnh cao sang: “Đức tin thơm hơn ngọc”, “Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm/ Và mặt trời kia tựa khối vàng/ có chàng trai mới in như ngọc, gió căng hơi và nhạc lên ngàn”. Hướng khoa trương thì cũng to tát đến cùng cực: “năm muôn năm, trời muôn trời”, “Như mê man chết điếng cả là da”,” Tôi hoảng hồn lên giận sững sờ”, v.v... Và điều này là nhất quán. Bởi thi học của Thơ Điên là: Cái gì của nó cũng tột cùng.

Năm điểm trên đây là một hệ thống khá chặt chẽ như những nguyên tắc thi pháp cơ bản chi phối từ gốc đến ngọn, từ vĩ mô đền vi mô của Thơ Điên. Điểm tụ dễ thấy của chúng là cái nguyên tắc mĩ học bao trùm: Cái gì của nó cũng tột cùng.

Diện mạo kì lạ của Thơ Điên không phải hình thành do nhận thức lí thuyết mà chủ yếu từ trải nghiệm cá nhân trong sáng tạo cũng như những bất hạnh riêng của thân phận thi sĩ. Nó là sản phẩm của một sự khủng hoảng và một khát khao, một nỗ lực sáng tạo. Chúng ta đều biết Thơ Mới là tiếng nói trữ tình của Cái Tôi cá nhân cá thể. Thế giới Cá nhân là một phát kiến mới mẻ, cũng là một trốn chạy ngọt ngào; là một miền đất hứa nhưng cũng là tuyệt địa của tinh thần. Nếu Thơ Mới là hành trình đi mãi vào địa hạt của Cái Tôi, Thì Thơ Điên mang cái tham vọng muốn tới chỗ sơn cùng thuỷ tận của Cái Tôi đó. Nếu Thơ Mới là nỗi Cô đơn của con Người, thì Thơ Điên là cái trạng thái chót cùng hoàn toàn quá tải của Cô đơn - ấy là Đau thương, là Tình yêu tuyệt vọng. Nếu Thơ Mới thể hiện một nguồn sống mãnh liệt của Cá nhân, thì Thơ Điên muốn tìm tới dạng thức tột cùng của sự mãnh liệt ấy- mãnh liệt đến cuồng tâm dại trí. Nghĩa là đa phần Thơ Mới là Kinh nghiệm còn Thơ Điên muốn tới một thứ Siêu nghiệm.

Tất cả những điều đó khiến cho Thơ Điên cứ chênh vênh, cheo leo trên ranh giới rất mạo hiểm giữa Thơ và phi Thơ, phản Thơ. Chạy theo cái Tột cùng mà chỉ cần thiếu đi một chút chân thực, lập tức nó sẽ hoàn toàn thành khoa trương, sáo rỗng; hoặc chạy theo cái kinh dị quá liều, lập tức thành phản cảm... Có thể nói, Thơ Điên đã đẩy mình đến miệng vực, đến sát lằn ranh mong manh của vương quốc thơ, bên này là sinh địa, bên kia là tuyệt địa của Thơ. Cheo leo thế, Thơ Điên không phải là ít loạng choạng. Không ít mảnh Thơ Điên đã hụt chân sa xuống vực. Và ở một nghĩa nào đó, đây cũng chính là đường ranh giới phân hoá người đọc của loại hình thơ này: người “chịu được” có thể coi đây mới là Thơ, thậm chí thơ cao siêu, người “dị ứng” dễ bảo đây không phải là thơ của Người - điều này cũng đã được chính các thi sĩ của trường thơ Loạn tiên liệu.

Xem ra, Siêu Thực, Tượng Trưng, Hiện đại... đều là những cái ô chật chội đối với thể hình ngoại chuẩn của Thơ Điên. Nó đã tích hợp các yếu tố kia để chưng cất trong cái núi lửa đau đớn riêng của Hàn Mặc Tử để giờ đây mỗi tiếng thơ trào ra khỏi tâm thức của Tử là một dòng nham thạch riêng, khác hẳn. Dường như Thơ Điên chỉ có thể là chính nó - Tiếng thơ của những cái Tột cùng. Nó vừa giống vừa không giống với những gì đã có. Điều ấy xác định đóng góp độc đáo của Hàn Mặc Tử cho nền thi ca của chúng ta. Mang trong mình cái khát vọng muốn đẩy thơ ca đương thời lên một trình độ mới, Thơ Điên đáng được trân trọng và có quyền sống chính đáng của nó. Và bằng cái sự sống kì lạ mà Hàn Mặc Tử đã trút vào trong mỗi dòng mỗi chữ, Thơ Điên đang sống. Mãnh liệt và Dai dẳng. Trước khi mất, Xuân Diệu dường như có điều chỉnh lại sự tiếp nhận của mình đối với Hàn Mặc Tử. Ông nói rằng máu của Hàn Mặc Tử vẫn rỉ ra trong mỗi con chữ cứ quằn quại ấy.

Thực ra, xem xét Hàn Mặc Tử như một thi sĩ khao khát cái Tột cùng - từ con người đến quan niệm, từ tư tưởng đến thế giới hình tượng và loại hình Thơ Điên - rất có thể vẫn mới chỉ là một cách đọc vào thứ kí tự kì bí của thơ Hàn, một cách thăm dò khảo sát vào một vỉa, một kiểu kết cấu địa chất nào đó của trái núi bí ẩn. Còn Hàn xem ra vẫn cứ điềm nhiên khuất mình trong mây mãi thách thức, mãi mời gọi thế.


Văn chỉ, Đông Nhâm Ngọ
Chu Văn Sơn

[1] Chế Lan Viên, Báo Người mới số 23-11-1940
[2] Chế Lan Viên, Lời giới thiệu, Tuyển tập Hàn Mặc Tử, Nxb Văn học, 1987
[3] Hàn Mặc Tử, “Nghệ thuật là gì?” Báo Sài gòn 26-10-1935
[4] Hàn Mặc Tử, Chơi giữa mùa trăng, An tiêm xuất bản, Sài gòn, 1969
[5] Hàn Mặc Tử, Chơi giữa mùa trăng, An tiêm xuất bản, Sài gòn, 1969
[6] Trương Khiết, “Tôn giáo hiện đại và chức năng xã hội của nó” (Tài liệu tham khảo - Dịch từ Tân hoa, Văn trích số 6-1993), Kí hiệu TK- 26/94 Thư viện Tạp chí Cộng sản.
[7] Hàn Mặc Tử, Bích Khê - thi sĩ thần linh, tựa Tinh huyết, Nxb Hội nhà văn,1995.
[8] Hàn Mặc Tử, Tuyển tập, Nxb Văn học, 1987
[9] Hàn Mặc Tử, Chơi giữa mùa trăng, An tiêm xuất bản, Sài gòn, 1969
[10] Hàn Mặc Tử, Chơi giữa mùa trăng, An tiêm xuất bản, Sài gòn, 1969
[11] Lời Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, 1998
[12] Chế Lan Viên, Tựa, Điêu tàn, Nxb Hội nhà văn, 1995
[13] Xem các ý kiến của Chế Lan Viên, Phan Cự Đệ, Trần Đình Sử, Vương Trí Nhàn, Hoàng Hưng, Phạm Xuân Nguyên...
[14] Xem các ý kiến của Nguyễn Mộng Giác, Huỳnh Phan Anh, Phan Kim Thịnh, Chế Lan Viên...
[15] Tên tác phẩm nổi tiếng của Jiuliut Phuxich, nhà văn cộng sản Tiệp Khắc.
[16] Xuân Diệu, Thơ của Người, Báo Ngày nay số 7-8-1938
[17] Chế Lan Viên, Lời giới thiệu Tuyển tập Hàn Mặc Tử, Nxb Văn học, 1987
[18] Chế Lan Viên, Tựa, Điêu tàn, Nxb Hội nhà văn, 1995
[19] Hàn Mặc Tử, Nghệ thuật là gì? Báo Sài gòn 26-10-1935
[20] Tiếp cận cái siêu trong thơ Hàn Mặc Tử, Báo Lao động chủ nhật, số 47/90(52) 9-12-1990.
[21] Hàn Mặc Tử, Chơi giữa mùa trăng, An Tiêm xuất bản, Sài gòn, 1969
[22] Chế Lan Viên, Lời giới thiệu Tuyển tập Hàn Mặc Tử, Nxb Văn học, 1987

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nhớ Hàn Mạc Tử

Lúc trong nhà thương Hàn Mạc Tử có một người bạn “tương liên” không rời, tên Nguyễn Văn Xê. Lúc Tử mất chỉ có mình anh Xê ở bên giường bệnh, gia đình, bằng hữu đều ở xa.

Dưới đây là hồi kí của Nguyễn Văn Xê về những ngày anh tiếp xúc với Tử.

Buổi sáng mùa thu ngày 20-9-1940. Nơi nhà thương Nam ở Quy Hoà những bệnh nhân già yếu đang run lên vì gió lạnh từ biển thổi vào. Mẹ Juetta người phụ trách nhà thương Nam đẩy chiếc xe đi băng bó các vết thương của từng bệnh nhân với những thao tác nhẹ nhàng và nụ cười tươi vui, lời thăm hỏi đầy thân ái. Bỗng có tiếng thắng xe ô tô trước cổng. Các bệnh nhân người nhìn quan cửa sổ, người nhanh chân chạy ra gần chiếc xe. Anh em còn trong nhà thì bàn tán: “Chà, ai vô đây? Già hay trẻ? Bệnh nặng hay nhẹ?”. Còn mẹ Juetta lẹ làng chạy ra cửa tiếp hồ sơ nơi tay bác y tá đứng tuổi với nụ cười và lời cảm ơn. Ngoài sân, bác tài xế già cũng đã mở cửa, nhưng người bệnh đó như bị tê hai chân nên gắng gượng lắm mới đứng lên được, đầu gối run run bước từng bước một, tay bám vào xe cho khỏi ngã. Mẹ Juetta: “Mau đưa tay cho mẹ đỡ xuống con”. Mẹ nói và bước tới xốc đỡ người bệnh xuống đất một cách nhẹ nhàng. Theo bàn tay dìu đỡ của mẹ Juetta, người bệnh cố đi như lết, đầu cúi xuống trước bao cặp mắt dán theo cái hình hài gầy gò, nhỏ thó: “Kia là ai? Từ đâu tới?” Đến giường số 3, mẹ dừng lại, nhìn vào hồ sơ và nói: “Trí, đây, đây là chỗ của con”. Tôi ôm mớ hành lý gói bằng giấy báo cũ của Trí để lên đầu chiếc tủ con rồi tiếp tay với anh lao công trải chiếu chăn cho Trí. Làm xong tôi mới nói với Trí- khi đó, đang đứng vịn vào giường run run- “Anh Trí lên giường nằm cho khoẻ”. Trí gật đầu rồi rút đôi chân sưng đen ra khỏi đôi ba-ta trắng cũ rich đã ngả qua màu vàng xám có mùi hôi thối- bị đạp nhẹ ở cuối gót để thành dép lê dễ xỏ chân.

Mẹ Juetta bưng đến một tách lớn đầy sữa nóng, và múc từng muỗng cho Trí uống. Trí e ngại nói: “Xin mẹ để con tự bưng uống được”. Mẹ lắc đầu nói: “Không được, để mẹ đút cho con uống vì sữa nóng sẽ làm con phỏng tay”. Rồi mẹ sung sướng mỉm cười thấy Trí cố gắng uống cạn ly sữa. Mẹ nói: “Con nằm nghỉ, chút nữa ăn cơm”. Trí lễ phép: “Con cám ơn mẹ”. Khi mẹ Juetta quay về phòng thuốc rồi, mọi người quan sát thấy Trí mặc đồ bà ba trắng, ngoài khoác chiếc veston màu trắng bám đầy bụi đường, cổ choàng chiếc khăn lông trắng. Trí trang phục rườm rà thế, nhưng vần không sao che nổi tấm thân gầy còm, ốm yếu. Trí để nguyên quần áo nằm trên giường lim dim mắt.

Đến 11 giờ trống bào hiệu giờ cơm trưa, tôi đến bên giường Trí nói: “Anh Trí ra dùng cơm trưa”. Trí mệt nhọc ngồi gượng dậy nói:“Cám ơn anh, tôi sẽ ra” rồi khập khiễng lê từng bước ra khỏi bàn ăn và cố gắng ăn nửa chén cơm chan canh rau. Tôi đã thấy ngay là Trí không đả động đến món cá biển tuy là hôm ấy cá rất tươi ngon. Mẹ Juetta thấy Trí ăn quá ít nên đến ép Trí cố gắng ăn thêm, nhưng Trí vẫn một mực chối từ: “Thưa mẹ, cám ơn mẹ, con đã no lắm rồi”. Sau bữa ăn, tôi đem đến cho Trí một chén trà nguội, và đưa Trí về giường, rồi tôi mới về nhà làng.

15 giờ hôm ấy, tôi trở lại thăm và trò chuyện với Trí để tìm hiểu: “Tôi là Nguyễn Văn Xê, người Huế, vào trại đã hai năm, hiện đang giúp việc cho các mẹ”. Trí cười: “Tôi là Trí, Nguyễn Trọng Trí, chắc anh Xê nghe giọng nói cũng biết là người cũng ở gần Huế”. Tôi cười vui: “Vậy thì anh Trí ở Quảng Bình hay Quảng Trị phải không?”. Trí gật đầu cùng với tiếng cười, tôi lại nói: “Tôi còn nhỏ lắm, mới 21 tuổi thôi, xin anh Trí hãy gọi bằng em cho thân mật”. Trí lại lắc đầu nói: “Anh Xê đừng quan tâm chuyện tuổi tác, tôi cũng còn nhỏ mà”. Tôi lại tò mò: “Vậy anh Trí năm nay bao nhiêu tuổi?”. Trí nói nhỏ vừa đủ tôi nghe: “Hai mươi tám”. Tôi cười vui nói: “Vậy là làm anh đúng rồi”. Trí không chấp nhận hay phủ nhận, mà lại hỏi tôi: “Nhà anh Xê ở mô?” Tôi trả lời ngay: “Ở bên Lào, tỉnh Savanakhet lận, còn anh?” Trí có vẻ hơi xúc động trong giọng nói: “Nhà tôi ở ngay Quy Nhơn”. Nghe vậy tôi không giấu được sự ngạc nhiên, liền hỏi: “Ở ngay Quy Nhơn mà anh không vào đây ngay chữa trị?” Sau câu hỏi này của tôi thì Trí lộ vẻ xúc động với đôi mắt long lanh buồn thảm: “tôi nghĩ không bao giờ mình bị bệnh này anh Xê à”. Tôi buộc miệng nói ngay: “Uổng quá”. Thấy mình lỡ lời nên vội vàng nói thêm: “Nhưng cũng không muộn màng gì đâu anh Trí, anh yên tâm chữa trị vài tuần thì sẽ thấy khỏi ngay”. Trí lúc này thật buồn, nói như bị nấc cụt: “Tôi tuyệt vọng rồi hy vọng, hy vọng rồi tuyệt vọng đã mấy năm nay rồi”. Thấy thế nên tôi vội an ủi: “Bây giờ anh phải hy vọng vì chữa thầy đã đúng chỗ rồi”. Trí cũng rầu rầu nói với vẻ mặt không tin tưởng: “Khắp các tiệm thuốc Bắc và các ông bà thầy thuốc Nam ở Bình Định tôi đến chữa không sót một người, mà càng ngày thân thể ra thế này”. Thấy câu chuyện không ngờ làm Trí buồn lòng, tôi nói vài lời an ủi Trí rồi tạm biệt Trí đi về cho Trí được thảnh thơi nghỉ ngơi, tránh xúc cảm.

Thấm thoát thời gian trôi mau, Trí vào Quy Hoà đã được ba tuần lễ. Nhờ sự chăm sóc chu đáo, tận tuỵ của các nữ tu dòng Thánh Francois Dassise mà đặc biệt là mẹ Juetta phụ trách nhà thương Nam là người lo lắng cho Trí nhất, nên bệnh tình của Trí thuyên giảm rõ rệt.

Trí và tôi thường trò chuyện với nhau và có lần Trí thổ lộ tâm tư đôi chút: “Tôi đến Quy Hoà này nơi có bãi biển, rừng dừa xanh, núi non hung vĩ, cù lao xanh huyền ảo, đặc biệt là tình người, nên tôi được hưởng cái bình an của nội tâm, cái thanh tao của nguồn vui tưởng như đã chết trong tôi khi ở thôn Tấn đầy đau khổ, nghèo túng”.

Cả buổi trưa cho đến tối ngày 30-1-1940 tôi bận việc, nên sáng hôm sau mới hay Trí đi kiết đến kiệt sức nên không thể đi nhà thờ. Khi tôi đến thăm Trí thì thấy anh phờ phạc, xanh xao nhiều lắm, đề nghị xin mẹ Juetta cho anh vào trong phòng liệt cho tiện. Trí có nói với tôi là từ khi mắc bệnh cũng như khi vào Quy Hoà ngày ngày Trí ăn thịt heo nạc kho tiêu với cơm hoặc cháo, Tôi để ý điều này đúng y như vậy, cứ mỗi tuần lễ thì có anh Hành là người nhà mang từ Quy Nhơn vào thịt heo kho tiêu, thứ thịt heo nạc không mỡ được ram mặn đựng trong chiếc cà men nhôm. Rồi suốt hơn một tuần lễ từ 30-10-1940 đến bảy-11-1940 bệnh kiết lỵ của Trí vẫn không giảm, mà có phần tăng thêm, nên trông Trí người khô đét, gầy guộc xanh xao đến thảm não.

Đêm 8-11-1940 – phiên trực của tôi. Lúc 21 giờ, Trí đột nhiên ngồi dậy lấy từ trong áo gối ra hai tập giấy đánh máy đóng rất đẹp rồi hỏi tôi: “Anh Xê đã có tình yêu chưa?” Câu hỏi bất ngờ quá, nhưng tôi vẫn trả lời: “Từ nhỏ đến giờ tôi chỉ có một tình yêu duy nhất đối với Thiên Chúa mà thôi”. Trí gật đầu rồi lấy cây bút chì cùn trong túi áo veston ra ghi dòng chữ như sau: “Thơ cầu nguyện đề tặng anh Xê- Francois Trí” Rồi anh ghi tiếp tập thơ Đời đề tặng anh Phạm Văn Trung, và rồi đưa tôi cả hai tập nói: “Thơ cầu nguyện là tặng anh, còn thơ Đời là tặng anh Trung, nhờ anh đưa giúp”. Thú thật, lúc ấy không hiểu tại sao tôi không thể nói một lời, dù là một lời cảm ơn thong thường nhất, tay cứ mân mê hai tập thơ mỏng độ ba bốn mươi trang.

Đêm ấy Trí đi tiêu rất nhiều lần, mỗi lần đi có một chút đờm và vài giọt máu, Trí mệt lả bước không nổi, tôi phải dìu đi rồi dìu về giường nằm. Đêm càng khuya thì sức tôi cũng mệt, nên tôi đã ngủ quên chắn cả lối đi, không ngờ trong lúc ấy Trí tuột xuống giường đi không nổi...

Sáng 9-11-1974, sau khi khám bệnh, mẹ Juetta bưng chén thuốc cho Trí uống xong nói: “Chiều nay có xe đi mới cha tuyên uý vào xức dầu cho con”. Trí gật đầu và dạ rất nhỏ.

Sáng 10-11-1940, lúc 6h 45’ cha cho Trí chịu phép xức dầu và rước lễ. Nguyên ngày hôm ấy Trí vẫn đi tiêu nhưng tôi thấy tinh thần Trí tươi tỉnh khi nói chuyện với tôi. Tôi hỏi Trí có cần gì thì thành thật bảo với tôi. Trí đọc cho tôi hai địa chỉ cần báo tin khi Trí chết:
1) Trần Thanh Mại - Trésor - Huế
2) Quách Tấn

Tôi hỏi Trí có cho gia đình biết tin không, thì Trí nói: “Rồi anh Hành sẽ vào, và dĩ nhiên mẹ và gia đình tôi tất biết”.

Đêm nay tôi trực với mẹ Juetta và xơ Julienne. Chúng tôi có đến thăm Trí ba lần, và lần thứ ba lúc khoảng 3 giờ thì xơ Julienne cho biết từ giờ đến sáng Trí sẽ chết. Ngày 11-11-1940 thì Trí đã tắt thở. Sau khi báo tin cho các mẹ, tôi và an hem cùng giúp thay quần áo cho Trí và khâm liệm. Xong xuôi đâu đó thì anh em bệnh nhân đến đọc kinh cầu nguyện. Khi ấy tôi thu gọn “tài sản” của Trí gồm một bộ bà ba trắng cũ, một veston cũ, một đôi ba-ta sắp hư, một gối con, một cuốn sách dày 200 trang của Rousseau và một bài văn tiếng Pháp viết bằng bút chì, mà lúc thay đồ cho Trí tôi lấy ở trong túi xem qua, đó là bài văn “La Purett de l’ame” (sự trong sạch tâm hồn). Và tuyệt nhiên không có một xu hào nào trong túi Trí từ khi vào cho đến chết.

Trên đường trở về nhà thương, vừa đi tôi vừa suy nghĩ về Trí, về sự khiêm nhường của Trí là từ ngày vô cho đến chết Trí chưa hề nói tiếng Pháp với bất cứ mẹ nào. Lúc nào tôi cũng là người thông ngôn. Biết Trí làm thơ, viết văn thì tôi lại càng áy náy hơn, nhưng sự thất là tôi vần chưa hề biết Trí là nhà thơ có tiếng tăm ngoài đời.

Sau khi Trí chết chôn ba ngày, thì anh Hành theo thường lệ hàng tuần đem thịt heo nạc kho tiêu vào cho Trí, mới được tin Trí qua đời. Qua ngày hôm sau, mẹ và chị Lể của Trí tức tốc vào Quy Hoà. Tôi hướng dẫn gia đình Trí đi thăm mộ. Nơi đây tôi không thể cầm được giọt lệ trước một người mẹ khóc đứa con yêu, một người chị khóc em trong buổi chiều đông se se lạnh.

Sau khi Trí chết, tôi theo di ngôn gửi thư báo tin ngay cho Trần Thanh Mại và Quách Tấn. Một ngày cuối hạ 1941, tôi đang ở nhà riêng thì có người xuống gọi bảo tôi lên hướng dẫn cho thân nhân anh Trí ra thăm mộ. Tôi vội vã lên nhà dòng thì gặp một đôi thanh niên nam nữ. Tôi hướng dẫn họ đi ra nghĩa trang. Có điều tôi lấy làm lạ là người thanh nam thì im lặng cúi đầu đếm bước, người thanh nữ kia thì đã khóc tự lúc nào nên tôi không thể “tò mò” là gì của anh Trí. Đến mộ anh Trí rồi tôi quay về ngay, vì bận nhiều công việc, tuy có thấy cây thánh giá mộ anh Trí đã rớt ngã bên đường. Bây giờ nhờ Phạm Xuân Tuyển trực tiếp gặp bà Mai Đình tôi mới biết người thanh nữ khóc nức nở lúc đó là bà Mai Đình và người thanh niên là bạn trai làm ngành đường sắt ở Quy Nhơn “hộ vệ” bà vào Quy Hoà...


Trích Tạp chí Sông Hương số 28.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Về nguồn thơ văn Hàn Mặc Tử

Thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940), còn có các bút danh Hàn Mạc Tử, Minh Duệ Thị, P.T, Phong Trần, L.T, Lệ Thanh, Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ, Mộng Cầm, Trật Sên, Cụt Hứng, Foong Tchan, Anh Hoa, Trọng Minh, Tinh Nhơn, Cô Đài Trang, Cô Bạch Bình Giang…; từng cộng tác với các báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, Thực nghiệp dân báo, Sài Gòn, Tân thời, Người mới, Đông Dương tạp chí (?), Đông Dương tuần báo, Ngày nay, Tin tức, Công luận, Trong khuê phòng, Đông Á tân văn, Impartial, Opinion, La Lutte… Theo quan sát của chúng tôi, công trình sưu tập văn bản học tốt nhất về Hàn tính đến nay chính là Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm (Tái bản. NXB Văn học, 2002; 528 trang) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ (PCĐ, 1933-2007). Trong sách Thơ Hàn Mặc Tử (NXB Văn hoá - Thông tin, 2001; 342 trang), soạn giả Mã Giang Lân (MGL) dựa vào thống kê của Phạm Đán Bình (Tin nhà, Paris, số 2-1991) cho biết thêm nhan đề 18 mục bài viết của Hàn, đồng thời xác định “thơ Hàn chúng ta mới được đọc chừng 150 bài, còn thất lạc đâu đó” và kỳ vọng: “Cái phần chìm khuất kia hy vọng sẽ dần dần được kiếm tìm, bồi đắp, sung mãn”…

Trong quá trình sưu tập tài liệu cho công trình Người đương thời Thơ mới bàn về Thơ mớiDi sản văn học Quốc ngữ đến 1975, chúng tôi vừa tìm thêm được số lượng lớn tác phẩm của Hàn in trên báo Công luận (CL, Sài Gòn, 1916-1939) ngoài số đã từng công bố. So với dẫn giải trong sách Thơ Hàn Mặc Tử nêu trên, trước hết cần chỉnh lý, chuẩn hoá nhan đề một số bài viết của Hàn: không phải “Những câu hát phong tình của cổ Ai Cập” mà là “Những câu hát phong tình của nước cổ Ai Cập”; không phải “Khái niệm về thi ca” (làm thơ cần phải luyện khí) mà là “Khái niệm về thi ca” (Thơ có mấy lối? Làm thơ cần phải luyện khí); không phải “Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về nhân thế Chỉ Cảnh (fin de la vie humaine) ở học xá Pháp Việt Quy Nhơn” mà là “Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về vấn đề triết học ‘Nhân thế chỉ cảnh’ ở Học xá Pháp - Việt Quy Nhơn”… Đồng thời với việc cung cấp đầy đủ văn bản gốc những bài báo trước nay mới chỉ biết nhan đề, nhân đây chúng tôi giới thiệu thêm một số tác phẩm văn xuôi khác “mới toe” của Hàn vừa tìm lại được: “Mười lăm phút nói chuyện với bà Lê Thành Tường, cựu chủ nhiệm báo Phụ nữ Tân tiến ở Huế (Trung Kỳ)” (CL, số 6216, ra ngày 4-4-1933); “Khảo về lịch sử Nhật Bản từ nguyên thỉ đến hiện thời” (CL, từ số 6417, ra ngày 10+11-12-1933); “Chết” (CL, số 6693, ngày 22-11-1934); “Rousseau, tiểu thuyết gia” (CL, số 6760, ra ngày 16-2-1935); “Thử ngó qua nước Ái Nhĩ Lan: một nhà thi hào được phần thưởng Nobel năm 1924” (CL, số 6778, ra ngày 9-3-1935), v.v… Tất cả những tác phẩm trên góp phần cho phép chúng ta hình dung đầy đủ, sâu sắc, chuẩn mực, toàn diện hơn nữa chân dung con người, tư tưởng và sự nghiệp văn chương Hàn Mặc Tử.

Đi vào so sánh văn bản những bài thơ của Hàn từng được công bố trên các sách của PCĐ và MGL thì thấy có mấy sự sai khác. Ở bài Đêm khuya tự tình với sông Hương, cả hai sách đều sai hai chữ trong hai câu thơ: “Trong thành ngự chết con đen”, bản gốc in chữ ngự kia là ngũ, đọc đúng là: “Trong thành ngủ chết con đen”; câu: “Chiếc thuyền vô định tạt vào bến mê”, bản gốc là: “Chiếc thuyền vô định tạc vào bến mê” (CL, số 6772, ra ngày 2-3-1935, tr.5). Với bài Tuồng đời, PCĐ sai hai chữ quan trọng ở câu thơ thứ nhất: “Tuồng đời lặng lẽ vẽ nên phông”, đúng phải là: “Tuồng đời lăng lố vẽ nên phông” (CL, số 6790, ra ngày 23-3-1935, tr.5). Đặc biệt với bài thơ Sống khổ và phấn đấu dài 27 câu, sách PCĐ chỉ in 8 câu (trong đó sai chữ ở câu 8), thiếu mất 19 câu (CL, số 6802, ra ngày 6-4-1935, tr.5.)…

Điều quan trọng hơn, chúng tôi đã phát hiện, sưu tập thêm được trên năm chục bài thơ của Hàn Mặc Tử sáng tác và in trên báo Công luận trong khoảng thời gian 1932-1939. Hình thức nghệ thuật những bài thơ này khá phong phú, phần lớn làm theo thể Đường luật, một số bài theo lối thơ tự do và các thể hồi văn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn xen lục ngôn, thủ vĩ ngâm, song thanh, hát nói, từ khúc, lục bát, song thất lục bát… Về nội dung, phần nhiều các bài thơ hướng tới các giá trị nhân văn, xướng hoạ với chí sĩ Phan Bội Châu và bạn bè (Quách Tấn, Tùng Ngâm, Ngọc Hồ, Trần Bình Lộc, các bạn ở Phú Mỹ - Bình Định và cả những tứ thơ Gửi cho người không quen biết, Phút mơ màng, Tương tư, Canh khuya nhớ bạn)…; mở rộng lối thơ du ký, đề vịnh thắng cảnh non sông đất nước (xứ Huế, Phan Thiết, chùa Ông Núi - Bình Định), thú chơi tao nhã và vẻ đẹp bốn mùa (Cầm, Kỳ, Thi, Tửu; Xuân, Hạ, Thu, Đông; Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt)…; tiếp nối dòng thơ hiện thực, phản ánh tâm trạng thi nhân trước hiện tình xã hội (với các bài Đêm khuya ở nhà quê, Làm ruộng tự thuật, Than nghèo, Đau mới dậy, Đóng tuồng, Sống khổ và phấn đấu), v.v… Theo cách đọc “liên văn bản” có thể thấy thơ Hàn thực sự tiêu biểu cho quá trình hiện đại hoá, tiếp nối giữa hiện tượng sử dụng lối thơ truyền thống với việc gia tăng vai trò nguồn cảm xúc mới; giữa việc khai thác hệ thống chủ đề, đề tài quen thuộc với khả năng bộc lộ tiếng nói của chủ thể trữ tình cá nhân kiểu mới. Đặt trong tương quan so sánh đồng đại có thể nhận ra tứ thơ Gởi cho ai, Nhắn ai, Gởi cho người không quen biết của Hàn tương đồng với những Thư đưa người tình nhân không quen biết, Thư trách người tình nhân không quen biết, Thư lại trách người tình nhân không quen biết của Tản Đà, rồi tương đồng với những Nhắn nhủ, Nhắn ai, Lại nhắn ai của Quách Tấn v.v…

Nói riêng trong phạm vi thơ Hàn Mặc Tử, dễ thấy nhiều câu thơ, ý thơ trong số những bài mới phát hiện này có sự giao thoa, gặp gỡ, tiếp nối với nhiều tứ thơ đã biết để làm nên phong cách độc đáo họ Hàn.

Đọc câu thơ “Ô hay, người thế toàn yêu quái” (Hoạ - CL, số 6671, ra ngày 22-10-1934, tr.3) lại nhớ ý thơ: “Ô hay, người ngọc biến ra hơi” (Mơ hoa); đọc câu thơ “Dưới trăng đi lững thững/ Bóng dọi ngắm thành đôi” (Dưới trăng - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, tr.3) lại nhớ: “Ai đi lẳng lặng trên làn nước/ Với lại ai ngồi khít cạnh tôi” (Cô liêu); đọc câu thơ “Gió đông mơn trớn nhẹ” (Hái hoa - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, tr.3) lại nhớ: “Gió say lướt mướt trong màu sáng” (Huyền ảo); “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn); đọc câu thơ “Em khoe sắc đẹp bên cành lả/ Dáng điệu mơ màng vẻ thướt tha/ Đón cái xuân về vị tỉnh say/ Đỏ rần đôi má ửng hây hây” (Yêu để sống - CL, số 6802, ngày 6-4-1935, tr.3) lại nhớ những câu: “Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha” (Hoa cúc); “Trăng bay lả tả ngả lên cành vàng” (Rượt trăng); “Từ khi đôi má đỏ hây hây/ Em tập thêu thùa, tập vá may… Những lượt thu về, em thấy xuân/ Trên đôi má nõn lại phai dần” (Duyên muộn); “Xuân em hơ hớ như đào non/ Chàng đã thương thương muốn kết hôn/ Từ ấy xuân em càng chín ửng” (Mất duyên)…


Nguyễn Hữu Sơn
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hàn Mặc Tử, hành trình thơ - hành trình sống

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) xuất hiện trên thi đàn lãng mạn Việt Nam chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, tuy nhiên thơ của ông vẫn tiếp tục khơi dậy nhiều cảm xúc và sự mê say cho nhiều thế hệ, từ những bài thơ đầu tiên viết theo lối thơ truyền thống, cho đến những bài thơ mang dáng dấp siêu thực, tượng trưng sau này. Nhà phê bình Hoài Thanh ngay từ thời viết Thi nhân Việt Nam đã từng thốt lên: “Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử, ta không hiểu và không ai hiểu nổi” để cảm nhận về không gian thơ Hàn Mặc Tử theo lối phê bình ấn tượng nổi tiếng của mình, để cảm nhận về một “vườn thơ rộng rinh và ớn lạnh”. Các công trình nghiên cứu về Hàn Mặc Tử thường bàn nhiều về tập Thơ điên – nơi dấu ấn sáng tạo của Hàn đã thật sự bùng nổ. Xu hướng nghiên cứu thi pháp học cũng đã từng bàn về không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử… Các hướng nghiên cứu hàn lâm và kinh điển xin không bàn đến ở đây, mà người viết chỉ muốn cảm nhận những ám ảnh trong thơ Hàn bằng tình yêu rất riêng của mình mà thôi.

Thời gian của một người hối hả giành giật lấy sự sống, tình yêu như Hàn có lẽ đạt đến độ hối hả, gấp gáp, riết róng cao nhất. Thậm chí Hàn cũng đã từng tuyên ngôn hẳn trong một bài thơ có nhan đề Thời gian trong phần Hương thơm của tập thơ Đau thương (tức Thơ điên):

Còn đâu tráng lệ những thời xanh
Mùi vị thơm tho một ái tình
Đố kiếm cho ra trong lớp bụi
Ít nhiều hơi hám của kiên trinh

Đừng tưởng ngàn xưa còn phảng phất
Nơi làn gió nhẹ lúc ban đêm
Hồn xưa tự ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm

Chỉ có trăng sao là bất diệt
Cái gì khác nữa thảy đi qua
Tây Thi nàng hỡi bao nhiêu tuổi
Vẻ đẹp mê tơi vẫn nõn nà?

Tôi lạy muôn vì tinh tú nhé
Xin đừng luân chuyển để thời gian
Chậm đi cho kẻ tôi yêu dấu
Vẫn giữ màu tươi một mỹ nhân.
Quan niệm về thời gian trong bài thơ này đối nghịch hẳn với truyền thống, không phải là thời gian tuần hoàn mà là một dòng chảy gấp gáp, hoà quyện với nỗi thống khổ, tâm trạng cô đơn của cái tôi cá nhân cá thể. Cách nhìn thời gian ấy dung chứa cả một quan niệm sống, quan niệm nghệ thuật nhất quán của Hàn Mặc Tử.

Trong lời tuyên ngôn cho “Trường thơ Loạn” mà Hàn Mặc Tử làm chủ soái, Chế Lan Viên viết: “Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai.” Tất nhiên, khi xác định một tuyên ngôn cho “trường thơ Loạn”, cả Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đã định hướng cho một cuộc nổi loạn, đảo lộn thời gian, không gian, cảm xúc cảm giác để hướng tới những vẻ đẹp mới. Nhưng như vậy không có nghĩa là để hình thành một thứ xa lạ, tách rời khỏi Cái Đẹp – theo nghĩa mĩ học trọn vẹn nhất của nó. Thơ, với Hàn Mặc Tử, cũng chính là Sống, như tuyên ngôn nổi tiếng của ông: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến gần đứt cả Sự Sống”. Khi đã tự nhận thức như vậy, tất yếu con người ấy càng ý thức rõ thời gian như là một cuộc chạy đua gấp gáp để sống, để yêu và bám víu vào từng khoảnh khắc được sống của mình để phát triển đến tận cùng tâm hồn. Ta có thể nhận ra điều này trong thơ Hàn Mặc Tử trong nhiều chặng đường khác nhau của thơ ông. Nhiều lần Hàn Mặc Tử tự nhận mình là điên, nhưng cũng như một nghịch lý mang màu sắc triết học, đó là lúc Hàn tỉnh táo nhất để nhận diện chính mình. Hãy nghe lời thú nhận của Hàn khi đón nhận sự quan tâm của Mai Đình, trong phút bình tâm và sự xúc động trước chân tình của người thiếu nữ đã đồng cảm với nỗi đau và cái đẹp trong thơ Hàn:
Anh điên anh nói như người dại
Van lạy không gian xoá những ngày…
Khoảnh khắc “trút linh hồn” cũng là khi mở lòng để lắng nghe, để đợi chờ và được sống cùng những khát vọng khắc khoải. Nhưng rồi cũng là lúc nhà thơ tự cảm được nỗi thất vọng vì đón đợi một tấm lòng mà không gặp. Khi ấy hồn thơ như cạn kiệt sinh khí thành “lời thảm thương rền giữa nẻo mơ”, giữa lúc “máu đã khô rồi, thơ cũng khô”:
Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
– Còn em sao chẳng hay gì cả?
Xin để tang anh đến vạn ngày
Thường trực trong Hàn là nỗi ám ảnh của Hư Vô, không phải nỗi ám ảnh kiểu Xuân Diệu mà hiện lên “sượng sần”, “tê điếng” từng giác quan, trong chính cuộc sống phải đấu tranh với bệnh tật để giành giật sự sống của thi nhân. Đi tìm sự hiện hữu của Hồn trong khi phải vượt lên nỗi đau của Xác, đó chẳng phải là ý nghĩa thiêng liêng làm nên giá trị đời người sao, cớ sao phải phủ nhận nó để đi tìm một cái thi học tột cùng xa lạ nào? Với Hàn, thơ là điểm tựa duy nhất để chống chọi nỗi cô đơn, nhưng có khi thơ lại là hiện hữu của nỗi đau dày vò, của sự bất lực:
Này đây lời ngọc song song,
Xin dâng muôn sóng tơ đồng vơi vơi.
Xin dâng này máu đang tươi,
Này đây nước mắt, giọng cười theo nhau.
Tất nhiên, phẩm chất của một loại thơ như thế đều phải bắt nguồn từ chân cảm trăm phần trăm, không thể là thứ thơ nhập đồng, lên đồng giả hiệu! Người đọc đến với thơ Hàn vì lẽ đó, tự nhiên như hơi thở, như khí trời chứ không phải để đi tìm những thuyết lý xa lạ, những kiểu làm màu cho thơ. Người đọc chứng kiến nỗi đau rất thật, hạnh phúc rất thật nhưng lại không phải là cái thật như đếm có sao nói vậy, để cùng trửng giỡn với trăng, no nê khoái lạc và thậm chí bị cuốn vào cả cái điên cuồng, đớn đau, tuyệt vọng của Hàn, lòng rỉ máu theo những lời thơ “đau thương”, nỗi “sầu vạn cổ” đọng thành “những giọt lệ”:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?
Nỗi đau tình duyên, cảm giác lỡ làng, hụt hẫng nuối tiếc vốn dĩ nhan nhản thường trực trong Thơ mới thời bấy giờ, nhưng khi đọc Hàn Mặc Tử, tất cả vụt hiện lên như một nỗi ám ảnh về ranh giới sống – chết, hiện hữu – hư vô, được cụ thể hoá từ xác thân để hồn thăng hoa về một bến Hàn giang trong nỗi cô đơn rợn ngợp. Trăng vừa là “trăng vàng trăng ngọc” đấy, vụt đã tan tành, vỡ vụn trong nỗi nhớ thương đứt ruột “Hôm nay có một nửa trăng thôi/ Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi/ Ta nhớ mình xa thương đứt ruột/ gió làm nên tội buổi chia phôi”. Ánh trăng ấy vừa gần gũi, vừa khác xa với nỗi bịn rịn của Truyện Kiều “vầng trăng ai xẻ làm đôi…” – một bên là cái nhìn khách thể, một bên là sự chuyển hoá vào tâm trạng chủ thể, hiện rõ bóng dáng cô đơn của Hàn. Hoá ra ngay cả “trăng sao” cũng không “bất diệt” như Hàn tưởng, không phải là một giá trị bất biến tròn đầy, vĩnh hằng mà càng về sau càng trở nên khác thường, biến ảo theo từng cung bậc, nhịp điệu, sắc thái của hồn người. Trăng nhập vào châu thân, cùng Hàn làm những cuộc hành trình trong thơ không giống bất kì ai: có lúc hiện lên trong sự hài hoà “tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng”, có lúc lại biến ảo thành “bóng nàng yêu tinh/ nhịp cười như vỡ tiếng pha lê”, lúc lảo đảo “gió rít tần cao trăng ngã ngửa”… Trăng trở thành đại lượng thời gian, không gian của riêng Hàn, “vui, buồn, giận hờn” cùng Hàn trong những “cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế”. Cuối cùng trăng cũng xuất hiện trong lời thơ của Hàn tiên tri về cái chết của chính mình:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Không có một nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm
Theo những lời kể của bạn bè Hàn, thi nhân từng có tâm nguyện khi chết đi sẽ hoá thân cùng tập Đau thương của mình, phải chăng đó cũng là một kiểu sám hối trước giờ về Nước Chúa:
Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng
Nhưng cũng có thể có một cách lí giải khác, tuy rằng võ đoán nhưng cũng có lí riêng của nó, để cắt nghĩa cho mong muốn thiêu huỷ đứa con tinh thần: trong thời điểm sáng tạo nhạy cảm sẽ dễ khiến nhiều người ngộ nhận, bắt chước để đem lại những tiếng rên siết, sầu bi cho đời chăng? Hành trình “hương thơm” – “mật đắng” – “máu cuồng và hồn điên” dường như Hàn đã trải qua mấy kiếp người, với những vần thơ máu lệ. Cái ranh giới Đạo – Đời đôi khi không thể đem ra cắt nghĩa ở đây. Nhưng khi thơ Hàn đã thật sự đem lại cho người đọc những yêu thương và đau khổ cõi người của chính nhà thơ một cách trọn vẹn, thì Thơ ấy là Đời, cũng là Đạo – vì đó là sản phẩm của một tâm hồn trong veo và thánh thiện. Bởi vậy, thơ ấy sẽ mãi đồng hành trong những vui buồn nhân thế, mãi mãi đến muôn sau…

Có bao nhiêu học giả đã gọi Hàn bằng những định danh khác nhau: “thi sĩ đồng trinh”, “thi sĩ của đội quân Thánh giá”… và vô vàn những danh xưng khác. Nhưng với những người yêu Hàn đến với mảnh đất Quy Nhơn, Bình Định này, chưa bao giờ thi nhân xa lạ cách biệt với mọi người. Mọi người yêu Hàn một cách bình dân, mỗi người một cách, nhưng cứ đến dịp ngày sinh ngày giỗ của Hàn lại tập trung về Gành Ráng đốt nén hương thơm, uống ly rượu nhạt, để nhớ về Hàn, say cùng Hàn – “cho ta say chết đêm nào, đêm nay”. Họ hát bên nhau, đọc thơ cho nhau, lặng lẽ ngắm Vầng trăng – Hàn Mặc Tử, để nguồn thơ đất Bình Định này không bao giờ vơi cạn, như ước ao của Hàn:
Tôi ước ao là tôi ước ao
Tình tôi vô lượng sẽ dâng cao
Như bông trăng nở, bông trăng nở
Những cánh bông thơ trắng ngạt ngào…
Người Thơ ấy đã sống trong thơ, và thơ sẽ tiếp tục rong ruổi hành trình sống của Hàn giữa cuộc đời này!


Kỉ niệm 100 năm – ngày sinh của Hàn Mặc Tử
(22.9.1912 – 22.9.2012)
Trần Hà Nam
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thứ tự các anh chị em cô Cúc

Trong loạt bài ở trang nhất, đoạn cuối "Kỳ 7: SỰ THẬT TỪ MỐI TÌNH HOÀNG HOA..." viết không chính xác:
"Ngoài ông anh cả là Hoàng Toại định cư ở nước ngoài, Hoàng Thị Kim Cúc còn có mấy anh ruột tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève 1954: Hoàng Xuân Tuỳ (nguyên thứ trưởng Bộ Giáo dục), Hoàng Hoan Nghinh (nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại Philippines). Người em ruột Hoàng Tế Ngộ ở lại Huế, sau này “thủ từ” trong ngôi nhà mà chị Cúc từng sinh sống."
Nhà báo Phan Xi Păng tuy đến tận nhà phỏng vấn nhưng vẫn không nắm chính xác thứ tự các anh chị em. Có lẽ anh nghĩ rằng người đi tập kết là phải lớn hơn người ở nhà :D Nhưng thật ra trường hợp này ngược lại: các ông ấy trẻ hơn mới rảnh mà đi hoạt động :D
Thứ tự đúng là: ông Hoàng Toại, (...), cô Cúc, ông Ngộ, (...), ông Nghinh rồi ông Tuỳ.

Văn phi sơn thuỷ vô kỳ khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Chưa có đánh giá nào

Trang trong tổng số 4 trang (39 bình luận)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4]