Vào một ngày tháng hai, năm Ngọ
Vua truyền ngôi, nhường chỗ cho con
Thánh Tông năm ấy vừa tròn
Tuổi lên mười tám đủ khôn với đời

Lễ nhường ngôi cho hoàng thái tử
Lui về nhà ở tại Bắc Cung
Con tôn lên chức Thượng Hoàng
Trông coi chính sự chung cùng với con

Xuất gia rồi lên non Yên Tử
Gột lòng trần vui thú kệ kinh
Thành tâm sám hối đời mình
Đời như bóng nước, vô minh đắm chìm

Cửa thiên môn đã quen hôm trước
Bữa tương chao ở trốn Trúc Lâm
Thái Tông lùng kiếm cái tâm
Viết thành "Phổ thuyết sắc thân" để truyền

Tam thời trần liễm thiên biên tử
Nguyệt lạc tường giang dạ kỷ canh
Ngôi cao những bước gập ghềnh
Mượn màu thiền đạo giúp mình định tâm

Mười chín năm đi tìm bến Giác
Chuyện triều đình uỷ thác cho con
Chuyên tâm nghiên cứu Thiền Tông
Đến năm Đinh Sửu Thái Tông băng hà

Ráng trời chiều sương sa mặt nước
Gió trầm luân một bước thế gian
Có không trở giấc kê vàng
Khoanh tay có được vô thường hay chăng?

Ngồi ở trên ngai vàng hoàng đế
Là Trần Hoảng lên thế Thái Tông
Đổi thành niên hiệu: Thiên Long
Lo cha yên vị, lập cung riêng mình

Thánh Tông sinh vào năm Canh Tý
Là một người có chí, có nhân
Tôn hiền, trọng đạo, thương dân
Kế thừa cơ nghiệp nhà Trần về sau

Hăm mốt tuổi cầm đầu đất nước
Vua đã đi những bước vững vàng
Xiển dương văn hoá dân gian
Chỉnh trang quân đội, lo toan quốc phòng

Việc hành chánh chưa thông, phải sửa
Khắp mọi vùng đều mở thái y (1261)
Nơi nơi đều có trạm, ty
Chăm lo sức khoẻ cấp kỳ cho dân

Lấy những người tinh thông nghề nghiệp
Tôn làm thầy hướng dẫn dạy dân
Khuyến nông trồng trọt chuyên cần
Lập phường, lập hội ngày dần phồn vinh

Để tôn vinh những người cao tuổi
Thượng hoàng bày một buổi tiệc to
Lão ông ban tước hai tư
Lão bà được tặng lụa vua đề dành

Việc giáo dục ưu tiên tối thượng (1272)
Lấy đạo Nho làm hướng trị dân
An sinh xã hội đang cần
Đem lời Khổng Mạnh để răn mọi người

Định qui chế tuyển người làm việc (1275)
Phải tinh thông, chữ viết cho nhanh
Nghề nào, nghiệp đó phải rành
Mới cho bổ nhậm trong thành, ngoài biên

Lại xuống chiếu chiêu hiền đãi sĩ
Mở khoa thi định lệ hằng năm
Chọn người vào viện Hàn Lâm
Lựa ai tài giỏi nhiệt tâm để dùng

Dạy Đông cung mời thầy uyên bác
Thông Ngũ kinh, làu thuộc Tứ thư
Chọn người đức hạnh có thừa
Hiểu thông Phật giáo lại vừa Minh kinh

Lê Văn Hưu vốn rành lịch sử (1272)
"Đại Việt sử" vừa mới viết xong
Ba mươi quyển ấy gồm chung
Viết từ Triệu Vũ đến năm Chiêu Hoàng

Năm Bính Dần nhà vua xuống chiếu (1261)
Cho vương hầu, công chúa khai hoang
Mộ dân cày cuốc mở mang
Phá rừng, khẩn đất lập thành điền trang

Chia binh lính ra thành đội ngũ (1267)
Chọn Tôn thất nghề võ thật tài
Một đô gồm tám mươi người
Quân gồm ba chục đô này vừa đông

Cho tập trận nơi sông Bạch Hạc
Lại sai người chế tác gươm đao
Đóng thêm thuyền chiến để vào
Góp phần dự trữ khi nào giao tranh

Để biết thêm nội tình của địch
Vua ngầm sai tình báo sang Nguyên
Thế Quang mượn cớ đi tìm
Thu mua thảo dược mà đem về dùng

Vào mùa đông tháng mười Giáp Tuất (1274)
Ba mươi thuyền Trung Quốc ghé vô
Xin vua lánh nạn rợ Hồ
Nhai Tuân cấp đất lưu cư tạm thời

Hốt Tất Liệt sai người sang dụ
Vua liền sai chánh sứ mang thư
Sang Nguyên thông hiếu đáp từ
Phụng Công, Nguyễn Thám công du chuyến này

Năm Kỷ Mùi, Linh Từ Quốc Mẫu (1259)
Người từng là hoàng hậu Huệ Tông
Đến khi Thủ Độ loạn luân
Lấy ngay kẻ ấy làm chồng về sau

Bỏ Huệ Tông là điều bất nghĩa
Theo thái sư thất tiết tất nhiên
Nhưng là mẹ của Thuận Thiên
Nên chi vua phải đương nhiên gọi: Bà

Năm năm sau khi bà vừa thác
Trần Thủ Độ cũng bước qua đời (1264)
Tỏ lòng ngưỡng mộ với người
Thái Tông chế tác một bài văn bia

Triều nhà Trần sống quen thành lệ (1268)
Cùng họ Trần có thể lấy nhau
Hoàng gia khi đã bãi chầu
Vào trong cung điện, sân sau lan đình

Trong cung cấm linh đình yến tiệc
Rồi cùng nhau ăn uống no nê
Khi nào trời tối không về
Vào trong ở lại giường kề ngủ chung

Lúc thong dong thơ văn xướng định
Bạn của ngài Tuệ Tĩnh thiền sư
Vua làm hai quyển "Di thư"
Sách "Di hậu lục" dạy cho con mình

Chọn ngày lành nhường ngôi hoàng đế
Cho con mình thái tử Trần Khâm
Tháng mười ngày tốt, năm Dần (1278)
Lui về phủ đệ dành phần cho con