雉帶箭

原頭火燒靜兀兀,
野雉畏鷹出復沒。
將軍欲以巧伏人,
盤馬彎弓惜不發。
地形漸窄觀者多,
雉驚弓滿勁箭加。
沖人決起百余尺,
紅翎白鏃隨傾斜。
將軍仰笑軍吏賀,
五色離披馬前墮。

 

Trĩ đới tiễn

Nguyên đầu hoả thiêu tĩnh ngột ngột,
Dã trĩ uý ưng xuất phục một.
Tướng quân dục dĩ xảo phục nhân,
Bàn mã loan cung tích bất phát.
Địa hình tiệm trách quan giả đa,
Trĩ kinh cung mãn kính tiễn gia.
Trùng nhân quyết khởi bách dư xích,
Hồng linh bạch thốc tuỳ khuynh tà,
Tướng quân ngưỡng tiếu quân lại hạ,
Ngũ sắc ly phi mã tiền đoạ.

 

Dịch nghĩa

Lửa săn đã đốt ở đầu thảo nguyên mà thấy vẫn yên tĩnh,
Chim dẽ rừng sợ chim ưng nên cứ thập thò.
Tướng quân muốn tỏ ra người khéo rình mồi,
Ông gò ngựa, giương cung nhưng tiếc chim không ra nên không bắn.
Vòng vây hẹp dần, người săn đông,
Dẽ kinh hãi bay lên nên bị trúng một tên cứng.
Nó bay vọt lên cao khoảng trăm thước,
Tên đỏ, mũi tên trắng theo nó lúc nghiêng lúc ngả.
Tướng quân ngửa mặt lên trời cười lớn, quân sĩ chúc mừng vang dội,
Lông chim năm màu rơi tả tơi trước đầu ngựa.


Tác giả viết bài này trong thời gian làm chức thôi quan cho tiết độ xứ Từ Châu là Trương Kiến Phong. Bữa đó ông theo chủ tướng đi săn chim dẽ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Lửa đốt mà thảo nguyên yên tĩnh
Vì sợ ưng dẻ vẫn thập thò
Tướng quân muốn tỏ hay ho
Giương cung gò ngựa nhưng chưa bắn bừa
Vòng hẹp dần người xua chim sợ
Vừa bay lên đã thọ một tên
Dướn mình nó quyết bay lên
Tên hồng mũi trắng ngả nghiêng theo đà
Tướng quân ngửa mặt cười to
Lông rơi trước ngựa loà xoà tả tơi.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Đã đốt lửa săn đầu thảo nguyên,
Dẽ rừng sợ ưng thập thò yên.
Tướng quân muốn tỏ tài săn bắn,
Gò ngựa giương cung chẳng bắn tên.
Vây chặt hẹp dần săn chật đất,
Dẽ kinh bay trúng mũi tên liền.
Chim bay cao vọt lên trăm thước,
Tên trắng tên hồng lúc ngả nghiêng.
Ngửa mặt tướng cười quân chúc dội,
Rơi lông ngũ sắc ngựa quân tiền.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời