湘中酬張十一功曹

休垂絕徼千行淚,
共泛清湘一葉舟。
今日嶺猿兼越鳥,
何憐同聽不知愁。

 

Tương Trung thù Trương thập nhất công tào

Hưu thuỳ tuyệt kiêu thiên hàng lệ,
Cộng phiếm thanh Tương nhất diệp chu.
Kim nhật Lĩnh viên kiêm Việt điểu,
Hà liên đồng thính bất tri sầu.

 

Dịch nghĩa

Không còn chảy ngàn hàng lệ ở nơi quan ải xa cùng tận,
Cùng đi thuyền nhỏ trên dòng sông Tương trong.
Hôm nay vượn ở Lĩnh, chim ở Việt có kêu,
Cùng nghe nhưng không còn buồn (vì được tha rồi).


Trương thập nhất tức Trương Thự, bạn đồng liêu và cũng là bạn thơ của tác giả. Năm 803, đang làm quan trong triều, hai người có lỗi cùng bị biếm trích, Hàn Dũ đi Dương Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trương Thự đi Lâm Vũ, tỉnh Hồ Nam. Năm 805, nhân đại xá, Hàn Dũ nhậm pháp tào tham quân, Trương Thự nhậm công tào tham quân, cùng tại Giang Lăng phủ (nay là thành phố Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc). Hai người cùng đi chung một thuyền đến nhiệm sở mới, nhân đó viết bài này.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Nơi ải xa hết còn lệ rỏ
Trên sông Tương thuyền nhỏ cùng chèo
Chim rừng vượn núi có kêu
Cùng nghe mà chẳng còn khêu nỗi buồn

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Ngàn lệ ải xa đã không còn,
Cùng đi thuyền nhỏ dòng Tương trong.
Hôm nay Lĩnh, Việt vượn chim hót,
Buồn chẳng còn đâu nghe đã xong.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Đông Phong

Hết nghìn hàng lệ nơi biên ải
Cùng nổi sông Tương một lá thuyền
Chim Việt hôm nay với vượn Lĩnh
Cùng nghe thương vậy lại không buồn.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Hàng lệ trời xa hết nhỏ rồi
Sông Tương cùng bạn chiếc thuyền trôi
Tai nghe vượn hót chim kêu mãi
Lòng có buồn đâu vẫn cứ vui

15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời