Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Cổ phong (cổ thể)
Thời kỳ: Trung Đường
2 bài trả lời: 2 bản dịch
Từ khoá: Liễu Tông Nguyên (3)

Đăng bởi Lâm Xuân Hương vào 23/03/2016 05:56

柳州羅池廟詩

荔子丹兮蕉黃,
雜餚蔬兮進侯堂。
侯之船兮兩旗,
度中流兮風泊之。
待侯不來兮不知我悲。
侯乘駒兮入廟,
慰我民兮不嚬以笑。
鵝之山兮柳之水,
桂樹團團兮石齒齒。
侯朝出流兮暮來歸,
春與猿呤兮秋鶴與飛。
北方之人兮為侯是非,
千秋萬歲兮侯無我違。
福我兮壽我,
驅厲鬼兮山之左。
下無苦濕兮高無乾,
粳稌充羨兮蛇蛟結蟠。
我民報事兮無怠其始,
自今兮飲于世世。

 

Liễu Châu La Trì miếu thi

Lệ tử đan hề tiêu hoàng,
Tạp hào sơ hề tiến hầu đường.
Hầu chi thuyền hề lưỡng kỳ,
Độ trung lưu hề phong bạc chi.
Đãi hầu bất lai hề bất tri ngã bi.
Hầu thừa câu hề nhập miếu,
Uỷ ngã dân hề bất tần dĩ tiếu.
Nga chi sơn hề Liễu chi thuỷ,
Quế thụ đoàn đoàn hề thạch xỉ xỉ.
Hầu triều xuất lưu hề mộ lai quy,
Xuân dữ viên linh hề thu hạc dữ phi.
Bắc phương chi nhân hề vi hầu thị phi,
Thiên thu vạn tuế hề hầu vô ngã vi.
Phúc ngã hề thọ ngã,
Khu lệ quỷ hề sơn chi tả.
Hạ vô khổ thấp hề cao vô can,
Canh đồ sung tiện hề xà giao kết bàn.
Ngã dân báo sự hề vô đãi kỳ thuỷ,
Tự kim hề ẩm vu thế thế.

 

Dịch nghĩa

Trái vải đỏ chừ trái chuối vàng,
Món thịt nhiều loại cùng món rau chừ được dâng vào từ đường của ngài.
Thuyền rước ngài chừ cắm hai lá cờ,
Tới giữa dòng chừ gặp gió giữ lại thuyền không cặp bờ được.
Đợi ngài mà không thấy đến chừ không biết tôi buồn.
Ngài cưỡi ngựa thần chừ nhập miếu,
An ủi dân chúng tôi chừ ngài không nhăn mặt mà mỉm cười.
Miếu ngài trên núi Ngỗng chừ bên dòng sông Liễu,
Có cây quế cành lá kết tròn tròn chừ đá lởm chởm như răng.
Ngài xuất triều chừ về đây lúc cuối đời,
Xuân nghe vượn hú chừ thu ngắm hạc bay.
Người phương bắc chừ phán xét phải trái với ngài,
Dù ngàn thu, vạn năm chừ ngài không làm gì sai với chúng tôi.
Ban phúc cho tôi chừ ban thọ cho tôi,
Đuổi quỉ dữ chừ về mé trái núi.
Ruộng thấp không khổ vì úng nước chừ ruộng cao không lo khô hạn,
Lúa tẻ và lúa nếp đều đầy đủ, dư thừa chừ rắn, thuồng luồng thu mình ẩn núp.
Dân chúng tôi báo cáo miếu xây xong chừ bắt đầu cúng tế không hề lười biếng,
Từ nay chừ ngài uống rượu chúng tôi tế lễ đời đời.


La Trì là xã trong quận Liễu Châu. Liễu Châu đời Đường là quận Liễu Châu, đạo Lĩnh Nam, nay là huyện Liễu Giang, trong khu tự trị Choang, tộc Quảng Tây. Tác giả viết bài này khoảng năm 822, nhân mừng lễ khánh thành miếu thờ Liễu Tông Nguyên (773-819). Liễu Tông Nguyên là thi nhân lớn thời Trung Đường, làm quan to trong triều, thuộc phe cải cách, bị phe bảo thủ thắng thế, năm 815 đày ông ra nơi đây làm thứ sử. Ông mất tại đây bốn năm sau. Nhân dân cảm phục đức độ, yêu mến tài năng ông đem lại cơm no áo ấm cho mọi nhà, nên tình nguyện lập miếu thờ ông.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Viên Thu, Nguyễn Minh

Vải đỏ, chuối vàng hề thảo thương,
Dâng ngài rau thịt cúng từ đường.
Rước thuyền, hai lá cờ phơ phất,
Gió giữa dòng khôn cập bến ngang.
Đợi mãi, tôi buồn ngài chẳng biết,
Ngựa thần ngài hạ miếu an khang.
Mĩm cười an ủi bao dân chúng,
Núi Ngỗng bên sông Liễu dẽ dàng.
Đá chởm như răng, lá quế dày,
Xuất triều, ngài sống nốt nơi đây.
Thu về ngắm hạc, xuân nghe vượn,
Phải trái bắc phương phán xét hoài.
Vạn thuở, ngàn năm ngài vẫn đúng,
Chừ ban thọ phúc chúng tôi thay.
Đuổi xua quỷ dữ sang non trái,
Ruộng thấp, cao khai nước đủ đầy.
Nếp gạo luôn dư thừa chẳng thiếu,
Thuồng luồng, rắn độc ẩn mình chui.
Chúng dân kính báo không xao lãng,
Cúng rượu dâng hương đến vạn đời.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Nải chuối vàng và chùm vải đỏ
Thịt cùng rau dâng cỗ cúng ngài
Thuyền ngài cờ cắm một đôi
Giữa dòng gặp gió như lôi thuyền về
Đợi ngài buồn vì ghe không tới
Trên ngựa ngài nhập miếu an dân
Không nhăn mặt mà cười rân
Miếu trên núi Ngỗng bên dòng Liễu giang
Quế kết tròn, đá răng lởm chởm
Ngài xuất triều vào lúc cuối đời
Xuân nghe vượn, thu hạc bay
Bắc phương phán xét đúng sai với ngài
Dù ngàn năm ngài không sai quấy
Ban thọ còn ban phúc cho tôi
Đuổi ma về trái núi rồi
Ruộng thấp không úng, ruộng đồi nước dư
Lúa tẻ nếp đều thừa, sung túc
Rắn, thuồng luồng ẩn núp thu mình
Chúng tôi kính cẩn báo trình
Miếu xây xong, việc khói nhang đời đời.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời