Cuộc đờiDương Bá Trạc (1884-1944), hiệu Tuyết Huy là nhà báo, nhà văn và là nhà chí sĩ Việt Nam. Theo Vũ Ngọc Phan, thì trong các nhà văn đi tiên phong (ở nửa đầu thế kỷ 20), ông được kể là một người lỗi lạc [1]. Ông sinh ngày 27 tháng 3 năm Giáp Thân (22 tháng 4 năm 1884), người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu (nay là huyện Văn Giang), tỉnh Hưng Yên. Ông là con Dương Trọng Phổ (1862-1927), một nhà Nho có tư tưởng tiến bộ [2]; là anh ruột Dương Quảng Hàm (1898-1946) và Dương Tụ Quán (1902-1969), cả hai đều là nhà giáo tiến bộ thời cận đại.
Vốn có tư chất thông minh, lại được cha rèn dạy, năm 16 tuổi Dương Bá Trạc thi đỗ Cử nhân khoa Canh Tý (1900). Năm Giáp Thìn (1904), ông cùng Phan Chu Trinh vào mật khu Yên Thế bàn việc nước với lãnh tụ Hoàng Hoa Thám. Nhận thấy cái học cử nghiệp từ chương đã lỗi thời, cuối năm Bính Ngọ (1906), ông cùng với Nguyễn Quyền, Lê Đại, Hoàng Tăng Bí, Lương Văn Can xin lập Đông Kinh Nghĩa Thục [3].
Tháng 3 năm 1907, trường khai giảngở Hàng Đào, do Lương Văn Can làm Thục trưởng kiêm giảng sư ban Cao đẳng Hán học, Nguyễn Quyền làm Giám học, còn ông thì có chân trong Ban Tu thư (cùng với Lương Trúc Đàm, Phạm Tư Trực, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu...) lo việc dạy học, diễn thuyết, bình văn và biên soạn sách.
Bị nghi ngờ có tư tưởng chống đối, khoảng tháng 12 năm 1907, trường bị nhà cầm quyền Pháp cho đóng cửa. Năm ấy, nhân dân Quảng Nam kéo nhau hàng vạn người đến nhà chức trách đòi giảm thuế, rồi phong trào này lan khắp các tỉnh miền Trung. Và ở Hà Nội, xẩy ra vụ Hà Thành đầu độc ngày 27 tháng 6, khiến thực dân Pháp nghi là do các thân sĩ (trong đó có nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân) xuý giục nên thẳng tay đàn áp.
Biết Dương Bá Trạc đang cùng với các đồng chí mưu đồ việc lớn, chính quyền đã ra lệnh cho tri phủ Khoái Châu là Cung Khắc Đản cho lính về khám xét nhà ông, bắt cha mẹ và các em nhỏ của ông lên tỉnh xét hỏi.
Theo tài liệu của Sở Liêm phóng Đông Dương mang ký hiệu FL 124139, hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt nam, thì cha ông (Dương Trọng Phổ) đã có nhiều hoạt động cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và Đông Du. Và cũng tập này có đoạn kể rằng tại phiên xử ngày 15 tháng 10 năm 1908, Hội đồng đề hình đã nêu lên sự liên quan mật thiết giữa nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục với những người khởi xướng vụ đầu độc trên, nên sau khi bị giam ở Hoả Lò (Hà Nội), rồi bị giải về Hà Đông để cho Tổng đốc nơi đó là Hoàng Trọng Phu thẩm vấn ròng rã hơn một tháng trời, lại bị giải về Hà Nội lần nữa để xử. Cuối cùng, Hội đồng đề hình đã kết tội Nguyễn Quyền, Vũ Hoành, Lê Đại bị án khổ sai chung thân; Dương Bá Trạc bị 15 năm khổ sai; Dương Trọng Phổ [4] và Hoàng Tăng Bí bị 5 năm khổ sai. Xét xử xong, tất cả đều bị giam ở Hoả Lò (Hà Nội), rồi bị đày ra Côn Lôn.
Tháng Tám năm Canh Tuất (1910), sau khi ở Côn Lôn 20 tháng, Dương Bá Trạc được đưa về đất liền an trí [5] ở hạt Long Xuyên (nay thuộc An Giang). Ở đây ông sống bằng nghề dạy học, bốc thuốc và vẫn ngấm ngầm liên hệ với những người đồng chí hướng. Để che mắt nhà chức trách, ông cùng người em trai chuẩn bị thành lập một công ty canh nông tại Long Xuyên, nhưng việc chưa thành thì người em bị trục xuất ra Bắc, còn ông, thì mấy tháng sau bị đưa ra toà. Ở toà, ông tự bào chữa nên thoát tội, nhưng phải dời chỗ ở đến sát dinh Toà bố để dễ kiểm soát.
Hơn sáu năm trôi qua, ngày 16 tháng 1 năm 1917, ông được Toàn quyền Albert Sarraut ký lệnh ân xá, cho về Hà Nội. Đến Hà Nội, Dương Bá Trạc mới biết chính quyền thực dân cho lệnh thả chỉ vì muốn mua chuộc những người trí thức, như ông ra làm việc. Cân nhắc thiệt hơn, ông đành nhận làm một chân bỉnh bút [6] cho
Nam Phong tạp chí lúc đó đang chuẩn bị ra đời.
Rồi với ý định dùng báo chí để khai thông dân trí, góp phần làm cho đất nước trở nên phú cường, ông còn nhận viết cho mấy tờ báo khác nữa, như:
Tri Tân,
Trung Bắc tân văn (hồi Nguyễn Văn Vĩnh còn đảm trách)... Ngày 2 Tháng Năm, 1919, Hội Khai Trí Tiến Đức được thành lập với Phạm Quỳnh làm tổng thư ký, Hoàng Huân Trung làm hội trưởng; Dương Bá Trạc cũng đã cùng Ban văn học khởi thảo bộ
Việt Nam tự điển,
Việt Nam văn phạm.
Năm 1932-1935, ông làm chủ bút tờ Văn học tạp chí. Năm 1935, ông cùng Nguyễn Năng Quốc, Nguyễn Quang Oánh, Lê Dư sáng lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ và ra tờ Đuốc Huệ, làm cơ quan ngôn luận của hội. Năm 1935-1936, ông làm chủ bút tờ Đông Tây báo. Năm 1937, lập Hội Dân ích. Năm 1940, quân đội Nhật Bản vào Đông Dương. Ngày 29 tháng Mười năm 1943, ông cùng Trần Trọng Kim vào Sài Gòn, sống ở đó một tháng, sau đó bị người Nhật dùng mưu mẹo để hai ông đưa sang Chiêu Nam (tức Tân Gia Ba, nay là Singapore).
Ở xứ người, hai ông luôn mong tìm một kế sách giúp nước nhà sớm được độc lập, nhưng ý nguyện chưa thành, thì ông Trạc đã mất vì bệnh ung thư phổi vào ngày 26 tháng Mười năm Giáp Thân (11 tháng 12 năm 1944). Sau đó, thi hài Dương Bá Trạc được hoả táng để đem về nước.
Ngày 17 tháng 3 năm 1945, trong lễ truy điệu các liệt sĩ tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội, ở bài điếu văn, người ta liệt tên Dương Bá Trạc cùng với tên hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Ngày hôm sau, lúc 5 giờ chiều, Hội Phật giáo Bắc Kỳ làm lễ truy điệu ông tại chùa Quán Sứ. Cùng ngày ấy, tại Sài Gòn, rất đông các nhân sĩ, trí thức và đồng bào cũng đã làm lễ truy điệu ông tại vườn ông Thượng (nay là Công viên Tao Đàn).
Tác phẩmVăn xuôi, gồm 4 tác phẩm. Hai tác phẩm mang tính chất giảng học:
Chữ Nho học lấy,
Gia lễ giản yếu, và 2 tập văn:
Tiếng gọi đàn (1936),
Bức thư ngỏ cùng quan Tổng trưởng thuộc địa.
Thơ có 2 tập:
-
Trai lành gái tốt (Nghiêm Hàm ấn thư quán xuất bản, Hà Nội, 1924)
-
Nét mực tình (Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 1937)
Bên cạnh đó, ông còn viết nhiều bài để đăng tải nhiều kỳ trên các báo, theo các chủ đề: Việt sử khảo, Việt sử luận, Khảo cứu về sự thi ở nước ta, Bàn về vấn đề học chữ Hán, và viết những bài xã thuyết có tính cách luân lý, xã hội hay liên quan đến kinh tế, chính trị đương thời. Ngoài ra ông còn sáng tác nhiều câu đối, dịch Hán văn, viết ký truyện.
Nhận xét về ông, PGS, TS. Chương Thâu, viết: “Trong công luận, một thời người ta cho rằng Dương Bá Trạc là “người của Nhật” hay “thân Nhật”. May sao, nhờ những vần thơ tâm niệm ông gửi về cho mẹ già (
Nhớ mẹ), cho bạn bè (
Lưu giản các bạn trong ngoài), cho con cháu (
Bảo con cháu); và có lẽ hơn cả mọi điều cải chính, trong tập
Hồi ký Một cơn gió bụi (Nxb Vinh Sơn, Sài Gòn, 1969) của nhà sử học Trần Trọng Kim, đã nói rõ mọi sự thật về con người, cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp của nhà chí sĩ yêu nước, nhà hoạt động văn hoá khả kính Dương Bá Trạc.” [7]
Trong
Từ điển văn học (bộ mới), có đoạn: “Nhìn chung Dương Bá Trạc là người quan tâm đến thờ cuộc, đến những vấn đề chung của xã hội hơn là để ngòi bút trôi theo những cảm xúc riêng của cá nhân. Thơ ông viết khá đều tay, không có bài kém nhưng bài hay cũng không nhiều. Thơ hoài cổ và vịnh sử thường có lời cứng cáp, nhưng giọng điệu nặng nề kém phần thanh thoát; trái lại thơ vịnh cảnh thật nhẹ nhàng bóng bảy, nhiều khi có lời đẹp, ý tứ khá sâu sắc và tinh tế...” [8]
Tóm lại, cuộc đời và thơ văn của Dương Bá Trạc rất đáng để tìm hiểu và nghiên cứu, bởi vì ông là một nhân vật có thể đại diện cho lớp sĩ phu nho học khoa cử cuối cùng cố gắng tiến theo thời đại. Thơ văn của ông góp phần phản ánh giai đoạn lịch sử nước ta ở nửa đầu thế kỷ XX.
Bùi Thuỵ Đào Nguyên
1. Nhà văn hiện đại, tr. 412.
2. Dương Trọng Phổ đã sớm cho các con học thêm Tây học và còn vận động các gia đình giàu có đưa con em ra nước ngoài học tập để trở về chấn hưng đất nước. Ngoài ra ông còn chủ trương mở hiệu buôn Nam Đồng Ích, Hồng Tân Hưng để cổ vũ hàng nội hoá (Từ điển văn học, bộ mới, tr. 352)
3. Theo PGS. Chương Thâu, cuối năm 1906, Đông Kinh Nghĩa Thục đã được các nhà nho âm thầm xúc tiến thành lập, đến tháng 3 năm 1907 thì khai giảng, nhưng đến tháng 5 mới có giấy phép chính thức của phủ Thống sứ (Dương Bá Trạc - con người và thơ văn, tr. 52-53)
4. Dương Trọng Phổ bị kêu án 5 năm tù, nhưng chỉ ở Côn Lôn 5 tháng thì được thả (Dương Tụ Quán, trong Dương Bá Trạc - con người và thơ văn, tr. 26).
5. Toàn quyền Đông Dương đã ra Nghị định ngày 10 tháng 7 năm 1910, cho đổi án biệt xứ đối với một số phạm nhân ra án an trí. Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Hoàng Tăng Bí... cũng đều được đổi án như ông Trạc (Dương Tụ Quán, trong Dương Bá Trạc - con người và thơ văn, tr. 26)
6. Bỉnh: cầm, bút: bút; tức Biên tập viên của một tờ báo.
7. Chương Thâu, trong Dương Bá Trạc - con người và thơ văn, tr. 64.
8. Phạm Ngọc Lan, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 354
Tham khảo:
- Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (trọn bộ), Nxb Sống mới, 1959.
- Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004.
- Dương Bá Trạc - con người và thơ văn, nhiều người viết, Chương Thâu biên soạn. NXB Phụ nữ, 2004.
- Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb HK-XH, 1992.
- Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (quyển I), Sài Gòn 1966, tr. 187.