1. Danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 sinh năm Tân Hợi (1491) và mất năm Ất Dậu (1585), ông huý là Văn Đạt 文達, hiệu là Bạch Vân Am 白雲庵 và Tuyết Giang Phu Tử 雪江夫子, tự là Hanh Phủ 亨甫, người làng Trung Am huyện Vĩnh Lại Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng)(1) và yên nghỉ vĩnh hằng cũng chính trên quê hương mình. Từ nhỏ đến năm 1534, Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở Thanh Hoá và sau dạy học ở quê nhà. Năm 1534, khi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã 43 tuối mới đi thi và đỗ Giải nguyên. Năm 1535, ông thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) năm Ất Mùi niên hiệu Đại Chính thứ 6 (1535) đời vua Mạc Thái Tông và ra làm quan với nhà Mạc đến năm 1542. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người học rộng biết nhiều và giữ các chức quan, như: Tả thị lang Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sỹ.

Từ năm 1542 đến năm 1585, Nguyễn Bỉnh Khiêm nghỉ hưu tại quê nhà, tuy ông đã về nghỉ, nhưng vua nhà Mạc vẫn sai người đến hỏi quốc sự và thăng ông làm Thượng thư Bộ Lại, tước Trình Tuyên hầu, rồi Trình quốc công. Theo Đại Nam nhất thống chí 大南一統志 “Họ Mạc từng đem việc nước hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đáp rằng: Sau này nếu có sự biến, thì Cao Bằng tuy nhỏ cũng giữ được vài đời. Sau quả như lời nói của ông”(2). Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy làm quan cho nhà Mạc, và khi cáo quan vẫn giúp nhà Mạc; nhưng với tinh thần nhập thế của một nhà Nho tinh đời, ông không ngần ngại bày kế sách cho cả vua Lê, chúa Trịnh và cả chúa Nguyễn. Nguyễn Bỉnh Khiêm bình thản nhìn sự đời thay đổi, chữ “trung” của ông được cắt nghĩa trong bài Trung Tân quán bi ký 中津館碑記 như sau “Quán dựng xong, đề biển là Quán Trung Tân. Có người hỏi: lấy tên quán như vậy ý nghĩa thế nào? Ta trả lời rằng: trung nghĩa là trung chính vậy. Giữ được toàn vẹn tính thiện của mình là trung vậy, không giữ toàn vẹn được tính thiện của mình thì không phải là trung vậy. Tân tức là bến vậy. Biết chỗ dừng đó là đúng bến, không biết chỗ dừng thì là lạc bến vậy. Tên gọi của quán này đại thể là như thế. Như trung với vua, hiếu với cha mẹ, thân ái với anh em, hoà hợp vợ chồng, tín với bạn bè, đó là trung vậy. Đối diện với của cải mà không tham, thấy lợi mà không tranh giành, vui với điều thiện mà bao dung được người, lấy tình thực mà ứng đãi với mọi vật, đó cũng là trung vậy”(3). Như vậy đủ biết, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà Nho, luôn ý thức về “tam cương ngũ thường” của Nho giáo, nhưng ông không phải là người cố chấp, ngu trung. Lòng trung của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện là giữ vẹn điều thiện và lấy tình thực mà ứng đãi. Như vậy, việc Nguyễn Bỉnh Khiêm bày kế sách cho vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn là chí thiện và chí thành vậy. Theo Đại Nam nhất thống chí, “Vua Lê Trung Tông (1549 – 1557) không có con nối ngôi, đại thần bàn định xem nên lập ai, nhưng chưa quyết được, mới sai người đến hỏi (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Ông không đáp và bảo người nhà rằng: Năm nay đã mất mùa, sao không mau tìm thóc giống cũ mà đem gieo trồng cho kịp thời vụ. Bề tôi nhà Lê suy ý lời nói ấy, bèn quyết kế rước lập vua Anh Tông”(4). Rồi việc “Khi Trịnh Tùng lăng loàn, có dị chí, ngầm sai người hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về số phận nhà Lê còn dài ngắn như thế nào? Ông không đáp bỏ ra chùa chơi, giả bộ giận các nhà sư bất cẩn, trách mắng rằng: Ngạn ngữ có câu “thờ Phật ăn oản, không biết thờ Phật thì mong gì được ăn oản”. Trịnh Tùng nghe nói mới thôi không cướp ngôi nhà Lê nữa”. Hay như việc “Đức Thái tổ Hoàng đế triều ta (Nguyễn Hoàng) luôn bị họ Trịnh chèn ép bức bách, muốn dời đi nơi khác, đã sai người đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông trả lời: Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân (nghĩa là: Một dải núi ngang có thể dung thân muôn đời được). Sau bản triều xây dựng cơ nghiệp ở miền Nam, lời ông quả ứng nghiệm”(5). Như vậy, rõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm rất tinh thông lý học, biết xem kham dư, dự đoán tương lai “Sứ nhà Thanh là Chu Xán từng khen rằng: Ở nước An Nam, giỏi lý học có ông Trình Tuyền (Nguyễn Bỉnh Khiêm)”(6). Cũng nhiều ý kiến cho rằng, những “mách nước” của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là giai thoại, truyền thuyết; nhưng trên thực tế những giai thoại, truyền thuyết ấy được khá nhiều tư liệu ghi. Ngay cả sử liệu như Đại Nam thực lục 大南實錄 do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn cũng ghi việc Nguyễn Bỉnh Khiêm “mách nước” cho Nguyễn Hoàng mở về phương Nam: “Đến khoảng năm Thuận Bình đời Lê Trung Tông, do quân công được tiến phong Đoan quận công. Bấy giờ Hữu tướng triều Lê là Trịnh Kiểm (bấy giờ xưng là Lượng quốc công) cầm giữ binh quyền, chuyên chế mọi việc. Tả tướng là Lãng quận công Uông (con trưởng Triệu Tổ) bị Kiểm hãm hại. Kiểm lại thấy chúa công danh ngày càng cao nên rất ghét. Chúa thấy thế, trong lòng áy náy không yên, cùng bàn mưu với Nguyễn Ư Dĩ rồi cáo bệnh, cốt giữ mình kín đáo để họ Trịnh hết ngờ. Chúa nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm (người làng Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều Mạc, làm đến chức Thái bảo về trí sĩ) giỏi nghề thuật số, nên ngầm sai người tới hỏi. Bỉnh Khiêm nhìn núi non bộ trước sân ngâm lớn rằng: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Sứ giả đem câu ấy về thuật lại. Chúa hiểu ý”(7).

Nguyễn Bỉnh Khiêm hưởng thượng thọ 95 tuổi, trong đó có 84 năm nằm gọn ở thế kỷ XVI và sống ở nơi quê hương mình. Như chúng ta đã biết, trước Nguyễn Bỉnh Khiêm và cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều người đi thi đỗ đạt rồi làm quan, khi bất đắc chí hay vì lý do nào đó cáo quan về ở ẩn, các ông thường chọn một nơi nào đó mà mình ưa thích để ở. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm từ lúc thiếu thời, khi trưởng thành, lúc nghỉ hưu luôn gắn bó với làng quê Trung Am nhỏ bé. Đây là một điều đặc biệt ở con người Nguyễn Bỉnh Khiêm, và cũng bởi ông tinh thông lý học, nên đã chọn được đắc địa đó là nơi chôn rau cắt rốn – làng quê Trung Am.

Chúng ta hãy hình dung làng quê Trung Am xinh đẹp qua một đoạn văn trích trong bài Trung Tân quán bi ký của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Mùa thu năm Nhâm Dần, tôi bỏ việc quan về nghỉ ở làng, bèn mời các vị cao niên trong làng cùng đi dạo ở bến Trung Tân, trong xa phía đông là biển; nhìn phía tây là kênh; ngắm phía nam là dòng Liêm Khê, nào là Trung Am, Bích Động trước sau kế tiếp; cúi nhìn phía bắc là Tuyết Giang, nào chợ Hàn, đò Nhật ôm bên tả hữu. Một con đường lớn chạy ngang ở giữa, ngựa xe tấp nập, chẳng biết là dài đến mấy ngàn dặm vậy. Nhân đó quay lại nói với các kỳ lão: các cầu Nghênh Phong, Trường Xuân trước đây các vị đã sửa dựng, đẹp thì cũng là đẹp rồi, nhưng chưa có chỗ đất nào đẹp như chỗ này”(8). Cách đây hơn bốn trăm năm, cái làng quê Trung Am bé nhỏ ấy đã đẹp đến thế. Trong nhiều bài thơ chữ Hán, chữ Nôm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã miêu tả phong cảnh quê ông rất lãng mạn, nên thơ và thật hữu tình, là vùng đất địa linh mà ai ai cũng muốn đến tham quan. Trong bài thơ Trung Tân ngụ hứng 中津寓興, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết địa thế của quán Trung Tân thật tao nhã của một miền quê vùng gần biển:
Nhân thôn quán tây nam,
Giang thuỷ quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên hữu Vân am trắc.
Luân chuyển trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực…

(Làng xóm ở phía tây nam quán,
Sông ngòi ở mạn tây bắc quán.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Cạnh vườn có am Bạch Vân.
Bụi xe chẳng bén tới,
Hoa, trúc tự tay trồng…) (9)
Trong bài Hạ cảnh 夏景, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã miêu tả đôi nét về cảnh quan của quán Trung Tân vào ngày mùa hạ sao mà đẹp đẽ nên thơ, phong cảnh hữu tình làm sao:
Nhật trường Tân quán tiểu song minh,
Phong nạp hà hương viễn ích thanh.
Vô hạn ngâm tình thuỳ hội đắc,
Tịch dương lâu thượng vãn thiền thanh.

(Ngày dài ở quán Trung Tân, cửa sổ nhỏ sáng sủa,
Gió đượm hương sen, càng xa càng thơm mát.
Tình thơ vô hạn, ai là người hiểu được,
Chiều tà ở trên lầu, tiếng ve ngân vang.)
Hay trong một khổ bài thơ Tức sự 息事, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã miêu tả làng quê Trung Am thật thanh bình và rất lãng mạn:
Tá tiểu trì viên bạng Tuyết khê,
Xuân thâm cổ mộc tự thành khê.
Giang thiêm tình thái thiên hoa tuý,
Bích nhiễu hàn khê vạn trúc đê…

(Nhờ vào mảnh vườn, cái ao nhỏ bên cạnh sông Tuyết,
Xuân muộn hàng cây cổ thụ tự thành hàng lối.
Vẻ quang tạnh làm đẹp sông nước, ngàn đoá hoa say,
Màu biếc vây quanh khe mát, muôn khóm trúc rủ…)
Chính nơi đây, trên miền quê thơ mộng này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cùng mọi người trong làng xây dựng am Bạch Vân, quán Trung Tân; tạo nên một thú quê thanh đạm mà ông hằng yêu mến:
Ba gian am quán lòng hằng mến,
Đòi chốn sơn hà mặt đã quen.
Thanh vắng thú quê dầu nấn ná,
Dữ lành miệng thế mặc chê khen.
(Thơ chữ Nôm – bài 8)
Một địa thế có phong cảnh tuyệt vời như vậy, ắt hẳn cuộc sống nơi đây cũng phong lưu phồn thịnh, con người nơi đây cũng nồng ấm tình quê. Trong bài Nhân thôn 閒村, Nguyên Bỉnh Khiêm đã miêu tả:
Tổng tổng lâm lâm sinh chí phồn,
Sở cư xứ xứ hữu hương thôn.
Hào hoa hấp nhĩ tỷ lân hội,
Nhân hậu y nhiên mỹ tục tồn.
Tác tức tư đào Nghiêu nhật nguyệt,
Âu ca cộng lạc Thuấn kiền khôn…

(Nườm nượp xum xuê sinh sản ra rất đông đúc,
Nơi nơi có người ở là có xóm làng.
Hào hoa tụ hội, xóm giềng kề bên nhau,
Lòng người nhân hậu vẫn thế, phong tục tốt đẹp còn nguyên.
Làm việc nghỉ ngơi thoải mái với những ngày tháng đời vua Nghiêu,
Cùng ca hát vui chung trong trời đất thời vua Thuấn (ý là thời thịnh trị)…)
Và trong bài Ngụ hứng, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết:
Bán y thô thị bán nhân hương,
Trung hữu trì viên nhất mẫu cường.
Am quán trường nhàn xuân bất lão,
Giang san nhập hoạ bút sinh hương…

(Nửa dựa vào chợ quê, nửa dựa vào xóm làng,
Trong đó có ao, có vườn khoảng hơn một mẫu.
Chốn am quán mãi mãi thư nhàn, xuân không già,
Non sông đưa vào tranh vẽ, bút thêm hương sắc…)
Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn có một tấm lòng yêu quê và làng quê Trung Am nhỏ bé ấy đã hun đúc nên con người Nguyễn Bỉnh Khiêm, tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hình ảnh quê hương đẹp đẽ như tranh vẽ, gấm thêu luôn lắng đọng trong tâm hồn và trong thơ, văn Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Giang sơn tám bức như tranh vẽ
Phong cảnh tư mùa ấy gấm thêu.
(Thơ chữ Nôm)
Hay trong bài Ngụ hứng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ một bức tranh tuyệt tác quê mình:
Giang quán đăng lâm nhật hướng tà,
Thừa nhàn bả tửu thính ngư ca.
Bán thiên lương đệ thanh phong hảo,
Lưỡng ngạn tình thiêm lục thụ đa.
Hứng kịch dã tình thiên ái cúc,…

(Ở quán lên ngắm cảnh bên sông khi mặt trời tà,
Lúc nhàn cầm chén rượu nghe tiếng hát làng chài.
Từ lưng trời, hơi lạnh đưa lại luồng gió mát,
Hai bờ sông, trời quang cây xanh nảy nở.
Cảm hứng trào dâng, tình quê ưa riêng hoa cúc,…)
Như vậy, cách chúng ta khoảng hơn 500 năm, làng quê Trung Am đã được mô tả khá nhiều trong các bài thơ, bài văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm với những nét đẹp văn hoá truyền thống. Qua thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngày nay chúng ta hoàn toàn có thể thấy được làng quê Trung Am nhỏ bé bên bờ sông Thái Bình xưa kia, đã là một nơi thắng địa, một khu di tích văn hoá và xã hội có cuộc sống sinh hoạt phồn thịnh ở vào thế kỷ XVI. Chính cái làng quê Trung Am này, đã tạo nên nhân cách con người Nguyễn Bỉnh Khiêm, là nguồn cảm hứng vô tận tạo nên cốt cách trong thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tạo nên những thi phẩm của ông.


2. Trước tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm không những tinh thông lý học, mà còn có tài văn chương lỗi lạc; thơ văn của ông luôn được hậu thế ngợi ca. Nhận xét về thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vũ Khâm Lân (1703-?) trong Bạch Vân Am cư sỹ Nguyễn công Văn Đạt phả ký viết: “Văn chương Tiên sinh rất tự nhiên, không cần điêu luyện, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà nhiều ý vị, câu nào cũng có quan hệ đến sự dạy đời”(10). Còn Phan Huy Chú (1782 – 1840) nhận xét về thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau: “Đại để là thanh tao, tiếu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên… Lời và ý đều nhẹ nhàng nhàn nhã, có thể thấy được chí không thích làm quan”(11). Thơ, văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được chính tác giả đề tựa: “Tôi lúc nhỏ được gia đình dạy dỗ, lớn lên đứng vào hàng sĩ phu, đến khi về già thích nhàn tảng ẩn dật, vui cảnh non nước, vụng về làm thơ. Tuy vậy cái bệnh ham thơ lâu ngày tích lại chưa chừa được, mỗi khi thư thả lại nảy hứng ngâm vịnh… thảnh thảnh ghi lại thành thơ nói về chí, tất thảy được ngàn bài, biên tập thành sách, tự đặt là Bạch Vân Am thi tập”(12). Thế hệ sau ghi chép về tình hình thơ, văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau:

Vũ Khâm Lân (1703-?), trong Bạch Vân Am cư sỹ Nguyễn công Văn Đạt phả ký ghi: “Riêng về thơ phú quốc ngữ, tiên sinh cũng soạn rất nhiều, trước đã xếp thành một tập gọi tên là Bạch Vân thi tập, tất cả đến hơn ngàn bài, ngày nay sót lại độ hơn một trăm, và một thiên Trung tâm quán phú, còn thì thất lạc cả”(13).

Lê Quí Đôn (1726 – 1784), trong Đại Việt thông sử mục Nghệ văn chí ghi: “Bạch Vân Am tập: ? quyển, lại 1 bộ… quyển. Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn, tự đề tựa, tổng cộng có 1.000 bài thơ, một bộ không có lời tựa, vả lại so về thơ với nguyên văn chỉ có một phần mười, đây hẳn do người đời sau soạn, nhưng không biết tên, họ. Bạch Vân quốc ngữ thi: 2 quyển, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn”(14).

Phan Huy Chú (1782 – 1840), trong Lịch triều hiến chương loại chí mục Văn tịch chí ghi: “Bạch Vân Am tập, 10 quyển. Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn, một nghìn bài thơ… Bạch Vân quốc ngữ thi: 2 quyển, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn”(15).

Trần Văn Giáp (1902 – 1973), trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm nhận xét về thơ, văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau: “Về thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thơ chữ Hán được tập hợp trong Bạch Vân Am tập, và thơ chữ Nôm được tập hợp trong Bạch Vân quốc ngữ thi. Không thấy bản in tập thơ chữ Nôm, có lẽ đương thời cũng như về sau thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa từng được khắc ván in. Vì vậy, rải rác trong nhiều tập sao chép thấy có thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng số bài nhiều ít không giống nhau, tam sao thất bản, lẫn lộn thơ người nọ với thơ người kia cũng nhiều”(16).

Hiện nay thơ, văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm lưu giữ ở nhiều nơi, ở đây chúng tôi xin nêu những văn bản hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam

Tại kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, gồm có các văn bản:

Bạch Vân Am thi tập 白雲庵詩集, ký hiệu A.2256, thơ chữ Hán, 260 trang, sách in.Theo các nhà nghiên cứu, đây là bản in đầu triều Nguyễn. Nội dung sách gồm, Bạch Vân Am thi tập tự 白雲庵詩集序 (bài tựa do Nguyễn Bỉnh Khiêm viết), Bạch Vân Am sự tích 白雲庵事跡 (viết về hành trạng của Nguyễn Bỉnh Khiêm), tiếp là phần chép thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phần chép thơ văn chia là 2 làm quyển, Quyển 11 và Quyển 12, tổng cộng có 626 bài, trong đó có 3 bài ký văn xuôi. Theo Trần Văn Giáp, phần thơ văn chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong bộ sách có tên chung là Danh thi hợp tuyển 名詩合選, do viên Trấn thủ Hải Dương là Trần Công Hiến biên tập và đưa in năm Gia Long thứ 13 (1814)(17).

Bạch Vân Am thi tập quyển thập nhất 白雲庵詩集卷十一, ký hiệu A.1350, 134 trang, sách in, thơ chữ Hán. Nội dung có Bạch Vân Am thi tập tự, Bạch Vân Am sự tích và Quyển 11, giống như phần Quyển 11 của bản ký hiệu A. 2256.

Bạch Vân tiên sinh thi tập 白雲先生詩集, ký hiệu VHv.2615, thơ chữ Hán, sách chép tay, 142 trang, ghi niên đại năm Đinh Mùi niên hiệu Duy Tân thứ 1 (1904). Chữ Hán, chép không đều, có thể do nhiều người sao chép.

Bạch Vân Am thi văn tập 白雲庵詩文集, A.296/1 -2, sách chép tay, thơ chữ Hán, 582 trang.

Bạch Vân Am thi tập tịnh tự 白雲庵詩集並序, ký hiệu VHv.144, thơ chữ Hán, sao vào tháng giêng năm Mậu Thìn niên hiệu Tự Đức (1868), 172 trang.

Bạch Vân tiên sinh thi tập hạ 白雲先生詩集下, ký hiệu VHv188, sách chép tay, thơ chữ Hán, 114 trang.

Bạch Vân Am tiên sinh Trạng nguyên Trình quốc công thi tập tịnh tự 白雲庵先生狀元程國公詩集並序, ký hiệu VHv.850, sách chép tay, thơ chữ Hán, 114 trang.

Bạch Vân Am thi tập 白雲庵詩集,ký hiệu VHv.1794, sách chép tay, thơ chữ Hán, 240 trang.

Bạch Vân Am tiên sinh Trạng nguyên Trình quốc công thi tập tiền tự 白雲庵先生狀元程國公詩集前序, ký hiệu VHv. 2081, sách chép tay, thơ chữ Hán, 172 trang.

Bạch Vân Am thi tập 白雲庵詩集, ký hiệu VHv.1453/ 1-2, sách chép tay, thơ chữ Hán, 426 trang.

Bạch Vân Am thi tập 白雲庵詩集, ký hiệu A.2591, sách chép tay, thơ chữ Hán, 68 trang.

Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập 程國公阮秉謙詩集, ký hiệu AB.635, sách chép tay, thơ chữ Hán, 75 trang.

Trạng nguyên Trình Quốc công sấm ký 狀元程國公讖記, ký hiệu AB.345, sách chép tay, chữ Nôm, 33 trang.

Trình Quốc công Bạch Vân Am thi tập 程國公白雲庵詩集, ký hiệu AB.309, sách chép tay, 100 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, 98 trang

Bạch Vân Am thi tập 程國公白雲庵詩集, ký hiệu AB.157, sách chép tay, 100 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, 44 trang.

Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập 程國公阮秉謙詩集, ký hiệu AB.635, sách chép tay, 100 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và hơn 70 bài thơ Nôm tồn nghi là của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bạch Vân Am cư sĩ Nguyễn Trình Quốc công sấm ký 白雲庵居士阮程國公讖記, ký hiệu VNb.3, sách chép tay bằng bút sắt trên giấy học sinh, 25 trang. Một số bài thơ và câu sấm, tương truyền là do Nguyễn Bỉnh soạn.

Sấm ký bí truyền 讖記祕傳, ký hiệu VHv.2261, sách chép tay, chữ Nôm, 34 trang. Những câu sấm, tương truyền là do Nguyễn Bỉnh soạn.

Trình Quốc công sấm ký 程國公讖記, ký hiệu AB.345, sách chép tay, chữ Nôm, 33 trang. Những câu sấm, tương truyền là do Nguyễn Bỉnh soạn.

Trình tiên sinh quốc ngữ 程先生國語, ký hiệu AB.444,sách chép tay, chữ Nôm, 22 trang. Nhưng ghi chép hương ước, không phải thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Tam giáo tượng minh bi 三教像銘碑, N04662.

Ngoài ra, thơ, văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có trong các sách lưu giữu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Danh thi hợp tuyển 名詩合選, Địa học trích anh 地學摘英, Hàn các tùng đàm 翰閣叢談, Nhất tích thiên văn gia truyền 一蹟天文家傳, Quách thị gia tàng 郭氏家藏, Quảng lãm danh ngôn tập lục 廣覽名言集錄, Quảng Ngãi tỉnh nữ học trường 廣義省女學場, Thi sao 詩抄, Thi văn tạp ký nội phụ Hán tự đối liên tế văn trướng văn 詩文雜記內附漢字對聯祭文帳文, Thiên gia thi tập 天家詩集, Thiên Nam ngữ lục ngoại kỷ 天南語錄外紀, Tiên chính cách ngôn 先正格言, Toàn Việt thi lục 全越詩錄, Trần vương truyện khảo 陳王傳考, Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh 越南山河海峒賞詠, Việt thi tục biên 越詩續編, Việt tuý tham khảo 越粹參考, v.v…

Tại Thư viện Quốc gia Việt Nam có 4 bản thơ, văn Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Bạch Vân Am thi tập 白雲庵詩集, với 03 ký hiệu R.2017, R.1917, R.1718; trong đó bản ký hiệu R.2017 trùng với bản A.2256 của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Bạch Vân Am tiên sinh 白雲庵先生, ký hiệu R.101, sách chép tay, thơ chữ Hán, 75 trang.

Như vậy, có thể thấy thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm lưu truyền đến nay chép trong nhiều văn bản; khi nghiên cứu, biên dịch và giới thiệu thơ văn của ông, một yêu cầu đặt ra là công tác văn bản học phải đặt ra đầu tiên. Đây thực sự là việc làm khó khăn, chả thế mà đã có nhiều công trình nghiên cứu, biên dịch và giới thiệu thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm mà số lượng thơ văn của ông, nhất là số bài thơ Nôm đã chưa có được tiếng nói chung.


Văn bản thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Hiện trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 3 văn bản chép thơ Nom của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Trình Quốc công Bạch Vân Am thi tập 程國公白雲庵詩集, ký hiệu AB.309; Bạch Vân Am thi tập 程國公白雲庵詩集, ký hiệu AB.157 và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập 程國公阮秉謙詩集, ký hiệu AB.635.

Trong đó 02 bản Trình Quốc công Bạch Vân Am thi tập 程國公白雲庵詩集, ký hiệu AB.309 và Bạch Vân Am thi tập 程國公白雲庵詩集, ký hiệu AB.157 đều thống nhất chép 100 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập 程國公阮秉謙詩集, ký hiệu AB.635, chép 100 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và hơn 50 bài thơ Nôm tồn nghi là của Nguyễn Bỉnh Khiêm. So sánh 100 bài thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong 3 thi tập nêu trên, Phạm Văn Ánh nhận xét “về cơ bản đều giống nhau, thậm chí giống cả trật tự các bài (trừ một vài trường hợp không đáng kể)”(18). Có lẽ do ấn tượng về lời nhận xét của Vũ Khâm Lân “tất cả đến hơn ngàn bài, ngày nay sót lại độ hơn một trăm”, nên người sưu tập sau này đã dừng lại ở con số 100 là đáng tin cậy. Còn hơn 70 bài thơ Nôm tồn nghi là của Nguyễn Bỉnh Khiêm chép trong Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập 程國公阮秉謙詩集, ký hiệu AB.635, hiện cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Trong bản AB.635, từ tờ 19b chép thêm các phần: 1/ Trình Trạng nguyên hựu thi nhất thủ 程狀元又詩一首, nhưng lại chép 2 bài thơ Nôm. 2/ Trình công ngâm thi 程公吟詩, chép 51 bài thơ Nôm đều không đề tên bài, trong đó bài số 15 trùng với bài số 51. 3/ Từ tờ 29b, chép tiếp 21 bài thơ Nôm đều có đầu đề. 4/ Từ tờ 33b, chép 9 bài thơ văn chữ Nôm và chữ Hán, trong đó có 3 bài thơ Nôm và 6 bài thơ văn chữ Hán.

Khi khảo về 21 bài thơ Nôm chép từ tờ 29b – tờ 33a trong bản AB.635, Nguyễn Tá Nhí cho rằng “21 bài thơ Nôm có đầu đề này rất có thể không phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm… 21 bài thơ này được ghi đầy đủ trong tác phẩm Sô Nghiêu đối thoại (bản ký hiệu AB.469) in năm Cảnh Hưng thứ 41 (1780) của An Lạc cư sỹ”(19). Hay như 3 bài thơ Nôm chép ở phần cuối bản AB.635 cũng không phải thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Như vậy thơ Nôm cho là của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ các nguồn tư liệu là 153 bài, nhưng các nhà nghiên cứu như Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, v.v… cho rằng có khoảng 30 bài trùng nhau giữa thơ Nôm Nguyễn Trãi và thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bùi Duy Tân nhận xét: “Phần chắc là 2 bản thơ Nôm của hai đại gia (Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm) đều là những bản sao đi chép lại ở thời sau, từ sau khi nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời 1585 đến trước khi bản Phúc Khê được in 1868, quãng ba bốn trăm năm, quá nhiều thời gian để hai tập thơ (Quốc âm thi tậpBạch Vân Am thi tập) có thể lẫn lộn vào nhau”(20).

Còn như, theo ghi chép của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú và Trần Văn Giáp; Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân quốc ngữ thi, hiện trong kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam không thấy có sách này, mà ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có Trình tiên sinh quốc ngữ 程先生國語, ký hiệu AB.444,sách chép tay, chữ Nôm, 22 trang. Nhưng ghi chép hương ước, không phải thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ trước đến nay đã có nhiều bản phiên âm. Từ năm 1930, Sở Cuồng Lê Dư trong Quốc học từng san, tập 1 đã phiên âm giới thiệu 96 bài thơ Nôm. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu như Trần Trung Viên, Hoàng Xuân Hãn, Paul Schneider, v.v… cũng phiên âm, giới thiệu thơ, văn Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng đem lại những dấu ấn về việc phiên âm và giới thiệu thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm phải kể đến các công trình:

Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1983, do Đinh Gia Khánh chủ biên, Hồ Như Sơn phiên âm giới thiệu phần thơ Nôm đã tuyển chọn 161 bài thơ Nôm.

Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1989, do Bùi Văn Nguyên phiên âm giới thiệu 177 bài thơ Nôm.

Tổng tập văn học Nôm Việt Nam, Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, Nguyễn Tá Nhí chủ biên, phần thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Bạch Vân quốc ngữ thi) đã phiên âm giới thiệu 176 bài thơ Nôm.

Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2014, phần khảo thơ Nôm do Phạm Văn Ánh thực hiện, giới thiệu 152 bài thơ Nôm.

Như vậy, thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có nhiều nhà nghiên cứu phiên âm giới thiệu, số lượng bài thơ không thống nhất. Về 100 bài thơ là thống nhất, còn số lượng hơn 100 thì chưa được thống nhất. Chúng tôi biết rằng vấn đề văn bản học trong các tác phẩm thơ Nôm như Quốc âm thi tập 國音詩集 của Nguyễn Trãi (1380-1442), Hồng Đức quốc âm thi tập 洪德國音詩集 của Lê Thánh Tông và các tác giả khác trong Hội Tao đàn, Bạch Vân Am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, v.v… là rất khó khăn; nhưng giới nghiên cứu Hán Nôm và nghiên cứu văn học không nên để mãi tình trạng nhầm lẫn và khi công bố ghi là tạm thời chấp nhận như hiện nay. Chúng ta đã có những nhà nghiên cứu tiến hành minh định thơ Nôm Nguyễn Trãi và thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, dựa trên cơ sở về phong cách thơ, hay ngữ âm lịch sử, v.v… như Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Văn Hiệp; bước đầu đã có những căn cứ để biện minh về hơn 30 bài thơ trùng lặp của hai đại thi hào, thiết nghĩ trong tương lai khi làm lại thơ chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm thì nên giải quyết các bài thơ trùng lặp này.


Lời kết

Chữ Nôm ra đời có ý nghĩa hết sức lớn lao, đánh dấu bước phát triển của nền văn hoá dân tộc, ý thức tự cường và khẳng định vai trò, địa vị của tiếng Việt. Như mọi người đều biết, tiếng Việt của chúng ta rất giàu hình ảnh, là tiếng nói của nhân dân, là lời văn trong sáng của các nhà ngoại giao và là ngôn ngữ cảm xúc văn học trong các sáng tác của các nhà thơ, nhà văn và là kho tàng ca dao trong sáng tác văn học dân gian. Tiếng Việt của chúng ta giàu tình cảm, nhiều màu sắc và âm điệu, phản ánh tâm hồn trong sáng và cốt cách vĩ đại của nhân dân Việt Nam trải hàng ngàn năm lịch sử.

Chữ Nôm ra đời, đã đáp ứng được phần nào nhu cầu phát triển của nền văn hoá dân tộc, giai đoạn nước Đại Việt vững bước trong kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất. Ở thời nhà Lý, chữ Nôm xuất hiện trong các văn bản chỉ đơn thuần là những từ ghi tên người hay tên đất; nhưng sang thời nhà Trần thì đã phát triển thịnh hành và bắt đầu dùng trong ghi chép trước thuật để tạo nên văn học chữ Nôm. Theo các tài liệu đã công bố, chúng ta còn lưu giữ được một số văn bản được coi là văn học chữ Nôm ở vào thời kỳ này. Trước hết phải kể đến Cư trần lạc đạo phú 居塵樂道賦 và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca 得趣林泉成道歌 của vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tổ thứ nhất của phái Thiền tông Trúc Lâm; tiếp đến là Hoa Yên tự phú 花煙寺賦 của Lý Đạo Tái (1254 – 1334), đạo hiệu là Huyền Quang, tổ thứ ba của phái Thiền tông Trúc Lâm. Sau này Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân Am thi tập, Ngự đề Thiên hoà doanh bách vịnh 御提天和營百詠 gồm của Trịnh Căn (1633 – 1709), Càn nguyên ngự chế thi tập 乾元御制詩集của Trịnh Doanh (? – 1767), Thiên Nam ngữ lục 天南語錄 (khuyết danh), Thiên Nam minh giám 天南明鋻 (khuyết danh), Chinh phụ ngâm khúc 征父吟曲của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) và của Phan Huy Ích (1750 – 1822), Ai tư vãn 哀思晚 của Lê Ngọc Hân (thế kỷ XVIII), Đoạn trường tân thanh 斷腸新聲 của Nguyễn Du (1765 – 1820), Hoa tiên truyện 花仙傳 của Nguyễn Huy Tự (1743 – 1790 Lục Vân Tiên 蓼雲仙 của Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), v.v… đã nói lên sức sống mãnh liệt, một bước tiến mới của ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn học nghệ thuật và khẳng định vai trò của văn học chữ Nôm trong nền văn học trung đại Việt Nam.

PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh
(Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam)

1. Trịnh Khắc Mạnh: Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2012, tr. 30.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (bản dịch), Tập 2, Nxb. Lao Động – Trung tâm Văn hoá Đông Tây, tr. 1274.
3. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập, Nxb.Văn học, Hà Nội, 2014, tr.124-125.
4,5,6. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (bản dịch), Tập 2, sđd, tr. 1274.
7. Đại Nam thực lục, tập 3 (bản dịch), Nxb. Giáo dục, 2001, tr.29.
8. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập, Nxb.Văn học, Hà Nội, 2014, tr.124.
9. Các bản dịch thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm dẫn trong bài này đều theo Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1983.
10. Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm, Trần Thị Băng Thanh – Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu), Nxb. Giáo dục, 2001, tr. 632.
11. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Văn tịch chí (bản dịch), Tập III, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 127 – 130.
12. Tổng tập văn học Nôm Việt Nam, Nguyễn Tá Nhí (chủ biên), Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 643.
13. Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm, Trần Thị Băng Thanh – Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu), sđd, tr. 632.
14. Lê Quí Đôn: Đại Việt thông sử (bản dịch), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.109.
15. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Văn tịch chí (bản dịch), Tập III, sđd, tr. 127 – 130.
16, 17. Trần Văn Giáp: Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr. 901.
18. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập, sđd, tr.100.
19. Tổng tập văn học Nôm Việt Nam, Nguyễn Tá Nhí (chủ biên), Tập 1, sđd, tr. 646.
20. Bùi Duy Tân: Khảo và luận một số thể loại tác gia – tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 220 – 221.

Tài liệu tham khảo:
Di sản Hán Nôm Việt Nam-Thư mục đề yếu, Trần Nghĩa-François Gros đồng chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
– Nguyễn Tài Cẩn: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985.
– Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Võ Quang Nhơn, Mai Cao Chương và Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến năm 1945 (ba tập), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000-2002 (tái bản).
– Trịnh Khắc Mạnh: “Chữ Nôm và nền văn học Nôm”, Tạp chí Hán Nôm, số 6/2004.
Tổng tập văn học Việt Nam (nhiều tập), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]